Viết về Hòa thượng Thích Trí Quang  -  Mùa Thu Hà Nội 2019

Giữa hai làn đạn – Thầy Trí Quang

Nguyễn Hữu Thái

 

 

 

“Người làm rung chuyển nước Mỹ”!

           Hòa thượng Thích Trí Quang là một trong những nhân vật lịch sử Việt Nam được dư luận thế giới đặc biệt quan tâm trong những năm 1960, giữa cuộc chiến tranh Mỹ-Việt ác liệt ở miền Nam Việt Nam. Bước vào những năm 1960 khi ông cầm đầu cuộc vận động đòi bình đẳng tôn giáo, chủ quyền dân tộc và hòa bình tại Việt Nam, báo chí phương Tây gọi ông là “Người làm rung chuyển nước Mỹ”! Sau năm 1975 ông sống âm thầm dịch kinh sách.

Nhưng lịch sử không để ông yên. Các thế lực kình chống nhau vẫn còn tìm cách bôi nhọ ông từ lập trường chính trị đến phương thức đấu tranh. Người thì cho ông từng liên hệ với Mỹ, là con bài chiến lược của CIA.  Không ít kẻ kết án ông là đảng viên cộng sản cao cấp nằm vùng, đã lãnh đạo phong trào Phật giáo tiếp tay cách mạng làm sụp đổ Việt Nam Cộng Hòa. Những người khách quan hơn gọi ông trước hết là một “nhà tu yêu nước”. Sự thật ở đâu? Mong rằng những ghi chép này có thể giải mã được phần nào nhân vật lịch sử từng gây tranh cãi này.

Phật giáo chống Ngô Đình Diệm 1963 hay sự trổi dậy của một lực lượng dân tộc khác ở miền Nam  

  

Ngọn lửa Quảng Đức, 11/6/1963

Ngọn lửa tự thiêu Quảng Đức chống kháng chế độ Ngô Đình Diệm vào sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963 đã tác động làm thay đổi cuộc đời một sinh viên bình thường như tôi. Nghe phong phanh có một cuộc xuống đường lớn của Phật giáo, tôi chạy nhanh về phía ngã tư Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám) và Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), vượt qua các phóng viên người nước ngoài, hướng về phía đám đông sư ni cùng đồng bào Phật tử đang tụ tập. Từ một chiếc xe du lịch sơn trắng bước ra một nhà sư cao gầy, nét mặt bình thản. Ông từ tốn bước về ngã tư, xếp bằng ngồi xuống, hai tay chắp lại và nhắm mắt tham thiền. Bỗng một đám lửa màu vàng cam bùng lên, nhận chìm toàn thân ông trong biển lửa. Mọi người đồng loạt quỳ xuống tụng niệm.

Tôi vẫn còn nhớ như in người phóng viên hãng thông tấn UPI Mỹ Malcolm Browne la lớn: “Oh My God! My God!” (Ôi trời ơi! Trời ơi!) và tay anh bấm máy lia lịa. Anh ta bỗng chốc nổi tiếng khắp thế giới với các tấm hình nầy. Ngày hôm sau, hình ảnh nhà sư Việt Nam trong ngọn lửa có mặt trên hầu hết trang nhất báo chí thế giới và mọi người mới hay biết rằng đang có một cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do ở tại một đất nước nhỏ bé, xa xôi mang tên Việt Nam. Từ ấy, tấn bi kịch Việt Nam trở thành đề tài thời sự nóng bỏng của giới truyền thông quốc tế.

Sự căm ghét chế độ Ngô Đình Diệm trong lòng tôi bùng lên theo ngọn lửa tự thiêu Quảng Đức. Sự phản kháng quyết liệt của con người nhỏ bé đó đã có tác dụng tạo nên sức mạnh ghê gớm làm rung chuyển cả một guồng máy đàn áp khổng lồ cho đến nay tưởng không có gì có thể lay chuyển nổi. Nước mắt tôi trào ra theo bước chân đoàn người rước nhục thể cháy đen bọc trong tấm áo vàng, chầm chậm hướng về chùa Xá Lợi. Cảnh sát ngăn cản và xung đột xảy ra. Khói lựu đạn cay làm mắt tôi cay xè. Nước mắt ràn rụa, tôi cảm thấy bất lực và thất vọng. Tôi nhào về phía đống đá bên đường, vung tay ném như điên dại về phía cảnh sát. Họ xông lên, nện dùi cui tới tấp vào đầu vào cổ tôi đau điếng.

 

Đấu tranh trên đường phố Sài Gòn, 1963

Khởi đầu, tôi như một người ngoài cuộc đứng nhìn. Rồi không thể thụ động mãi, tôi đã đứng về phía những người bị đàn áp. Tôi bắt đầu nhập cuộc đấu tranh như thế đó, vào những ngày mùa hè nóng bỏng năm 1963, khi nổ ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, có hàng chục vạn người thành phố xuống đường đòi tự do dân chủ, bình đẳng tôn giáo chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.

Thật ra trước sự kiện Phật giáo 1963, tại miền Nam đã nổ ra cuộc xung đột đẫm máu diễn ra chủ yếu ở nông thôn giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn. Cuộc chiến đó đang lan dần đến các thành thị, gia tăng theo đà bất mãn của quần chúng nhân dân. Tôi đã nghe nói có nhiều nhà trí thức bị bắt giam vì đã hội họp ở khách sạn Caravelle ký kiến nghị gửi lên tổng thống Ngô Đình Diệm đòi tự do dân chủ. Họ đã bị bắt. Bản thân tôi cũng đã từng cùng người dân thành phố hiếu kỳ nhưng bàng quan, ùa về Dinh Tổng thống mục kích cuộc đọ súng qua lại giữa lực lượng quân dù của đại tá Nguyễn Chánh Thi và vệ binh ngày 11 tháng 11 năm 1960.  Cuộc đảo chính thất bại sau những bi hài kịch thương thảo và phản bội giữa hai bên. Lại thêm hàng loạt người bị bắt bớ giam cầm. Vào năm 1962, tôi cũng nhìn thấy 2 chiếc máy bay ném bom Dinh Tổng thống, nhưng cũng không đi đến đâu.

Khởi đi là việc chính quyền cấm treo cờ Phật giáo vào mùa Phật Đản tại Huế cùng vụ tàn sát học sinh ở đài phát thanh vào tháng tư, để tiến đến đỉnh cao là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức, rồi cuộc bố ráp chùa chiền, bắt bớ hàng nghìn sư sãi ở Sài Gòn và các tỉnh vào cuối tháng tám. Cuộc đấu tranh của Phật giáo lần nầy có quy mô to lớn và mang tính cách quyết liệt hơn, đã nổ ra suốt mùa hè năm 1963 để kết thúc là sự sụp đổ của chế độ Diệm vào tháng 11 sau một cuộc đảo chánh quân sự.

 

Linh hồn cuộc đấu tranh Phật giáo Thượng tọa Thích Trí Quang (bìa trái) ra khỏi tòa đại sứ Mỹ 

Trầm trọng nhất là việc tổng tấn công vào chùa chiền cả miền Nam vào cuối tháng 8. Hàng nghìn sinh viên học sinh đã xuống đường phản kháng, mặc cho lịnh giới nghiêm của tổng trấn Sài Gòn-Gia Định. Nữ sinh Quách Thị Trang bị bắn chết ở Chợ Bến Thành và hơn 3.000 học sinh sinh viên bị bắt giam chật ních Nha Cảnh sát Đô thành và Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Tôi chạy thoát, nhưng có hai đứa em bị bắt. Thành phố bị thiết quân luật và trường học đóng cửa. Cuộc đấu tranh chuyển vào bí mật. Hàng trăm tổ chức tranh đấu ra đời, như nấm sau cơn mưa.

Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ vào cuối năm 1963 sau cuộc đảo chính các tướng lãnh. Tuy vậy tình hình VNCH vẫn không yên tĩnh. 

Chính biến miền Trung chống Mỹ và Thiệu-Kỳ 1966:“Cuộc nội chiến trong một cuộc chiến tranh”

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hai anh em Diệm Nhu bị giết, Thầy Trí Quang vẫn không trở về với vị trí bên lề của trường chính trị, tiếp tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị của Việt Nam Cộng hòa bằng cách từ chối hậu thuẫn cho những chế độ quân nhân chủ trương chiến tranh điều hành quốc gia từ 1964 đến 1966 và chủ trương phải tái lập chế độ dân chủ cùng sớm vãn hồi hòa bình.

Trong việc leo thang chiến tranh ở Việt Nam với việc trực tiếp đổ quân chiến đấu Mỹ kể từ năm 1965, Phật giáo cũng không thể ngồi yên.

Sau cuộc hội họp với Tổng thống Mỹ Johnson ở Honolulu vào đầu năm 1966, các tướng Nguyễn văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ muốn nhanh chóng tóm thu quyền hành về một mối để dễ cai trị với bàn tay sắt cũng như rảnh tay điều hành cuộc chiến theo ý đồ của người Mỹ. Cái gai trước mắt của họ là lực lượng Phật giáo miền Trung và tư lệnh Vùng I, Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, người hùng của cuộc đảo chính chống Diệm năm 1960.

Nội bộ tướng lãnh Sài Gòn lục đục tranh quyền, Tướng Thi bị nhóm tướng lãnh Sài Gòn cách chức. Vụ bãi chức này chỉ là một cái cớ để Phật giáo tung ra cuộc đấu tranh mới, đòi các tướng lãnh đáp ứng các yêu cầu chính đáng của nhân dân. Đó là lập lại các định chế dân chủ như soạn thảo hiến pháp, bầu quốc hội dân cử như đã hứa hẹn từ ngày lật đổ Ngô Đình Diệm. Binh lính Quân đoàn I hầu như đã đồng loạt nổi dậy, sát cánh cùng đồng bào Phật tử chống lại chính quyền Sài Gòn. Cuộc biến động nầy được báo chí nước ngoài gọi là “Một cuộc nội chiến trong cuộc chiến tranh!          

Sài Gòn chuyển Thủy quân lục chiến ra sân bay Đà Nẵng, quyết dẹp tan cuộc binh biến. Các thành phố Đà Nẵng-Huế hầu như biến thành các căn cứ địa nổi dậy mới, với các đội Sinh viên 'Quyết tử', quần chúng vũ trang sát cánh cùng binh lính nổi loạn, chuẩn bị sẵn sàng đánh trả quân Sài Gòn. Binh lính Quân đoàn I cũng quay nòng súng đại bác chĩa vào sân bay và căn cứ Mỹ. Thấy quân dân miền Trung làm dữ, tướng Nguyễn Cao Kỳ một mặt hứa hẹn sớm tổ chức bầu cử Quốc hội, đưa cả tướng Thi ra xoa dịu tình hình. Nhưng mặt khác vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đàn áp, có quân Mỹ hỗ trợ ngầm đằng sau.

 

Bàn thờ xuống đường ở Huế   

Cuộc biến động miền Trung lần này có tác động phân chia lực lượng quốc gia đô thị làm thành hai phe rõ rệt. Trong hàng ngũ Phật giáo, nhóm chủ chiến Bắc di cư của thượng tọa Thích Tâm Châu đứng hẳn về phía nội các chiến tranh Nguyễn Cao Kỳ. Đa số Phật tử thì đứng về lập trường hòa bình nhưng cũng không mấy đồng nhất. Thượng tọa Thích Trí Quang nay lại xuất hiện, chủ trương tiến hành bầu cử quốc hội thể hiện được nguyện vọng của toàn dân. Hy vọng với đa số nằm trong quốc hội, Phật giáo sẽ nói lên được ý nguyện của nhân dân là đem lại chủ quyền và hòa bình cho Việt Nam.

Phải chăng cũng với ý hướng đó, Thầy Nhất Hạnh do tổ chức Hòa Bình Mỹ mời sang Hoa Kỳ, tuyên bố chủ trương 5 điểm của Phật giáo: Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức, quân đội Mỹ rút lui, ngưng oanh tạc Bắc Việt, Mỹ phải giúp lập chánh thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện. Do cuộc vận động này mà Thầy Nhất Hạnh phải sống lưu vong 40 năm sau mới được về lại Việt Nam!

Về cuộc chính biến này, dư luận khách quan thời đó ghi nhận :

Phật giáo không Cộng sản, cũng không thân Mỹ. Sau vụ Ngô Đình Diệm, không ít người nghĩ rằng Phật giáo có thể là đồng minh của Mỹ trong công cuộc ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản bằng chế độ dân chủ, bằng xã hội công bằng,  phát triển trong tự do, và đặc biệt bằng con đường hòa bình, hòa giải giữa hai ý thức hệ (Tự do – Cộng sản), giữa hai miền (Nam – Bắc), giữa hai thế giới (Tư bản – Cộng sản).

Đai sứ Mỹ Cabot Lodge lúc đó có lẽ đã cố gắng thuyết phục Thầy Trí Quang và Phật giáo đi theo con đường chiến tranh của mình. Nhưng Phật giáo kiên trì kêu gọi Mỹ ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng chế độ dân chủ trong quan hệ đồng minh chứ không phải trong quan hệ thống trị –  chư hầu.

Cuộc giằng co thuyết phục – kêu gọi lẫn nhau kéo dài từ cuối năm 1963 đến cuối xuân 1966. Một mặt, người Mỹ tiếp tục đi tìm người hùng cho giải pháp chiến tranh, mặt khác Phật giáo kiên trì đấu tranh dân chủ và quyền dân tộc tự quyết theo con đường hòa bình và phương pháp bất bạo động. Xem ra hai con đường không thể nhập làm một trong cuộc đương đầu với lực lượng cách mạng ở miền Nam.  

Và cũng như phe cách mạng Việt Nam, Mỹ cùng cộng đồng Thiên Chúa giáo Việt Nam và quốc tế khẳng định chỉ có một con đường, nhưng ngược chiều: chiến tranh.

Thầy Trí Quang và Phật giáo miền Trung lý luận rằng trong thế giới vô thường, đã có 1, ắt có 2, có 3. Như vậy là vào thời điểm này, trên thế giới này, trong đất nước này, Phật giáo là con đường thứ ba đó. Con đường thứ ba có sứ mệnh hóa giải sự ngược chiều sinh tử, hủy diệt dân tộc và nhân loại của hai con đường kia.

Cuộc đấu tranh của Phật giáo từ việc chống độc tài Ngô Đình Diệm qua độc tài Nguyễn Khánh, độc tài Trần Văn Hương đến độc tài Kỳ –  Thiệu – Mỹ là cả một cuộc hành trình. Đó là cuộc hành trình đầy khổ nạn đi giữa rất nhiều làn đạn.

Trong cuộc đương đầu với chế độ Ngô Đình Diệm, Phật giáo nhanh chóng nhận được sự đồng tình hiệp lực của tất cả phật tử và nhân dân miền Nam (Quân đội, Trí thức, Sinh viên, Học sinh, Đại Việt, Quốc Dân đảng, Cao Đài, Hòa Hảo, ngoại trừ cộng đồng Thiên Chúa giáo). Phải mất một thời gian khá lâu sau khi Diệm đổ, Thầy Trí Quang và Phật giáo mới nhận ra rằng tuy đồng hành, nhưng người Mỹ không là đồng minh trong các mục tiêu tự do và bình đẳng tôn giáo. Và nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Mỹ loại trừ chế độ gia đình trị là bởi Ngô Đình Nhu dám đem chuyện hiệp thương với miền Bắc làm ‘chantage’ (trả giá) với Mỹ.

Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ sau Diệm, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống Thiệu – Kỳ lần này, Thượng tọa Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung gần như đơn độc: Phật giáo miền Nam (của Mai Thọ Truyền) đứng ngoài. Phật giáo miền Bắc di cư (của Thích Tâm Châu) ngả về phía Thiệu-Kỳ. Cao Đài, Hòa hảo dửng dưng. Phật giáo Quốc tế can ngăn, phủ nhận. Báo chí Mỹ và các thế lực Công giáo quốc tế chống phá quyết liệt. Các tướng trẻ trong quân đội, đảng phái, một bộ phận trí thức và sinh viên chống Cộng ủng hộ chính phủ. Và người Mỹ từng bước hiện nguyên hình là cha nuôi, là ông chủ của Thiệu-Kỳ trong cuộc chiến tranh chống Cộng và cuộc đánh phá viên đá cản đường Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung.

Sau biến cố này, Thầy Trí Quang bị vô hiệu hóa qua việc chính quyền Thiệu-Kỳ giam lỏng, cô lập ở Sài Gòn.

Tranh cử quốc hội, 1971: Ý hướng hòa bình, hòa hợp hòa giải dân tộc

Thầy Trí Quang và phe Phật giáo đấu tranh đã tiên báo kết cục này từ năm 1964: “Mỹ sẽ thua nếu không từ bỏ cuộc chiến tranh của mình và chế độ độc tài quân phiệt tại miền Nam”.

Từ sau 1954, do nhận biết về bản chất của nền văn minh phương Tây, do kinh nghiệm sống dưới chế độ thực dân suốt một trăm năm bị đô hộ, và kinh nghiệm 9 năm kháng chiến thời gian Việt Minh, Phật giáo miền Trung – Huế làm nòng cốt cho cuộc vận động tự thân của Phật giáo toàn miền Nam với hy vọng hình thành một lực lượng đứng ngoài sự tranh chấp giữa hai phe Tư bản – Cộng sản, Quốc gia – Quốc tế. Phong trào Phật giáo từ 1963 đến 1966 biểu hiện cái khuynh hướng Thứ Ba ấy. Khốn nỗi, lực lượng Thứ Ba không thành, nhưng khuynh hướng chính trị Thứ Ba thì thấy rõ.

Năm 1971 có bầu cử Quốc hội Sài Gòn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng bí mật đề nghị tôi ra tranh cử với lập trường hòa bình đứng giữa, chuẩn bị cho sự hình thành 'Thành phần thứ ba'. Hội nghị Paris về vấn đề Việt Nam chưa ngã ngũ nhưng đang bàn đến việc lập chính phủ 3 thành phần, trong đó có thành phần đứng giữa làm trung gian hòa giải trong chính phủ liên hiệp tương lai. Thật khó khăn nếu tự ra ứng cử đơn thương độc mã một mình. Tên tuổi của tôi tuy cũng có một thời được nhiều người biết đến, nhưng nay chắc không ai còn nhớ đến trong cái Sài Gòn rộng lớn và bận rộn làm ăn kiểu này. Dẫu có tự do bỏ phiếu thì tranh cử kiểu không tiền bạc, không thế lực như tôi chỉ là chuyện vô ích.

Phải tìm hậu thuẫn nơi khối đông đảo quần chúng đô thị, lúc này không ai khác hơn là lực lượng Phật giáo, nhất là ở miền Trung. Tôi bàn bạc sẽ về Đà Nẵng quê tôi để tranh cử. Tôi vừa có hậu thuẫn ở Sài Gòn của tướng Dương Văn Minh, người sẽ ra tranh cử tổng thống với chiêu bài hòa bình, hòa giải vào cuối năm đó. Mặt khác, tuy cũng biết tôi đứng về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Thầy Trí Quang vẫn đồng ý giới thiệu, yêu cầu vị sư đại diện tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng là Minh Chiếu sắp tên của tôi vào danh sách những người được Phật giáo ủng hộ công khai.

 Tôi có nguồn tin đang có một thỏa thuận ngầm với nhau là từ Nha Trang trở ra Quảng Trị ở miền Trung các ghế dân biểu sẽ nhường cho các ứng cử viên Phật giáo. Tôi phải len lỏi cho được vào danh sách đó. Dĩ nhiên phía Mỹ và Sài Gòn mong muốn những ứng viên đó phải được bảo đảm là không thân Mặt trận Giải phóng. Việc thắng cử của tôi có thể xem được như chắc chắn nếu được sự hậu thuẫn của các nhà lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất. Vậy mà thực tế đâu phải dễ dàng như mình dự tính ban đầu. Trong lãnh đạo Phật giáo vào lúc đó, Thầy Trí Quang tuy uy tín còn lớn nhưng hầu như bị giam lỏng ở Sài Gòn, không nằm trong guồng máy lãnh đạo trực tiếp các tỉnh hội địa phương.

 Vào giờ chót, các lãnh đạo Phật giáo cao cấp khác như các thượng tọa Huyền Quang, Thiện Minh thuộc Viện Hóa đạo Phật giáo Ấn Quang đã đích thân bay ra Đà Nẵng đưa ra gà nhà của họ và quyết ngăn chặn Tỉnh hội ủng hộ tôi. Thật kỳ lạ là việc làm của họ trùng hợp với sự kiện lãnh sự quán Mỹ ở Đà Nẵng tung tin hãy cảnh giác tôi là phần tử thân Cộng. Sau 1975 tôi mới biết là các thượng tọa này đã liên kết ngầm với Nguyễn Văn Thiệu và Mỹ.

Gặp gỡ tôi sau vụ bầu cử, Thầy Trí Quang chỉ thở dài, hỏi tôi có tốn kém gì nhiều không? Có lẽ bản thân Thầy cũng ý thức được sự bất lực của mình trước các thế lực bất minh còn nằm ngay trong chính hàng ngũ cao cấp trong Phật giáo Ấn Quang.

Nay nghĩ lại, nếu hồi đó mà đắc cử, với cương vị một đại biểu quốc hội có lập trường hòa bình thân Cộng, bản thân tôi dễ bị các phe phái chống Cộng quyết liệt ở thành phố miền Trung này như Đại Việt, Quốc Dân Đảng sát hại, như họ đã từng làm đối với những người khác chính kiến hoặc tỏ ra lập trường thân Cộng.

30/4/1975 : “Thay người khác mà vác cờ trắng”!

 Bản thân tôi lại bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu truy bắt vào Tết năm 1974, chính Thầy Trí Quang đã gửi tôi trốn ở nhà dân biểu Lý Quí Chung. Chung là dân biểu đối lập chống Nguyễn Văn Thiệu và sau này là Tổng trưởng thông tin nội các Dương Văn Minh cuối tháng 4/1975, đã viết về mối quan hệ  giữa nhóm Dương Văn Minh và Thầy Trí Quang trong hồi ký của mình :

 “Với Phật giáo, ngoài sự tham gia ngay trong nhóm ông Minh của luật sư Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ quốc hội và là chủ tịch Lực lượng hòa giải dân tộc, nhóm còn tìm cách giành cho được sự tán đồng công khai của thượng tọa Thích Trí Quang, người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trong Phật giáo Ấn Quang. Tôi nhận nhiệm vụ riêng của ông Dương Văn Minh đi liên lạc với thượng tọa Thích Trí Quang, tìm sự ủng hộ của cá nhân thượng tọa và của Phật giáo Ấn Quang.

Sự liên kết chính thức giữa tướng Minh và thượng tọa Trí Quang diễn ra trong năm 1974. Khi tôi đặt thẳng vấn đề ông Dương Văn Minh mong muốn có sự ủng hộ công khai của thượng tọa trong một chủ trương đấu tranh cho hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc và trước hết là thay đổi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì thượng tọa Trí Quang trầm ngâm một lúc. Sau đó thượng tọa chậm rãi nói: “Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bén. Nhưng ông là người cần thiết lúc này, trao cho ông ngọn cờ tập hợp cũng được”. Cách nói của thượng tọa Trí Quang cho thấy việc chọn lựa ông Minh cầm ngọn cờ tập hợp để góp phần cùng lật đổ chính phủ Thiệu chưa phải là hoàn toàn ưng ý mà là một giải pháp thay thế, một chọn lựa tương đối tốt nhất bấy giờ”.

Về phần mình, tập Tự truyện của Thầy Trí Quang có ghi về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa như sau:

 

"Ấy thế, mọi việc diễn ra có lúc đến chóng mặt. Cho đến mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến vận động tôi đừng chống việc ông Dương Văn Minh đứng ra, "vì chính quyền của ông ấy sẽ có bảy phần mười là người tiến bộ". Tôi không nói lại gì cả, chỉ quan tâm lời thầy Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mua mà phóng sinh, lẽ nào đồng bào mà không hy sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng ! Sau đó mấy tháng, tôi trả lời một thầy Phật Giáo cấp Tỉnh, rằng nay Phật Giáo Việt Nam bước qua một giai đoạn khác.”

 

Khi quân giải phóng pháo kích dồn dập sân bay Tân Sơn Nhất khuya 29/4/1975, tôi nghĩ rằng cuộc chiến đấu cuối cùng đã bắt đầu. Lần gặp sau cùng, Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt hoạt động trong cụm A10, An ninh T4 Giải phóng) gợi ý rằng : “Chỉ có thuyết phục, tác động những người cầm đầu chính quyền Sài Gòn buông súng trên tinh thần hòa hợp hòa giải mới mong tránh được đổ máu và tàn phá”.

Nhóm sinh viên cùng binh lính, sĩ quan trẻ phản chiến lấy đại học Phật giáo Vạn Hạnh làm trụ sở đã chuẩn bị sẵn sàng. Dự kiến nếu còn chiến đấu dằng dai thì phải hình thành ngay các ‘Ủy ban hòa hợp hòa giải’ lấy các chùa làm cơ sở. Nghe nói nhiều nhóm vũ trang phản động vẫn toan tính trụ lại chống cự và phía quân giải phóng thì cũng quyết tâm sớm dứt điểm cuộc chiến, phải trả giá cao nếu cần. Ban đầu ai cũng nghĩ xung đột sẽ kéo dài, sớm nhất cũng đến ngày sinh Bác Hồ 19/5 mới ngã ngũ.

Sáng tinh mơ ngày 30/4, khi những chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn, tôi chạy vội lên chùa Ấn Quang gặp thượng tọa Trí Quang. Tôi báo ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động gấp nhóm ông Minh chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn. Các đường giây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không còn thì giờ đưa giải pháp này nọ nữa đâu”. Ông hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi điện thoại. Tôi nghe vị thượng tọa nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho biết: “Thái cứ yên tâm, Thầy không gặp được ông Minh, nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu (thủ tướng nội các mới), chắc chắn họ sẽ hành động theo hướng này”.

Ngày hòa bình và thống nhất đất nước 30/4/1975 sau đó đã diễn ra êm thấm, Sài Gòn đã được giải phóng, không đổ nát và đổ máu.

Thượng tọa Thích Trí Quang, trước hết là “một nhà tu yêu nước”

Nhân vật Trí Quang từng là đối tượng gây tranh luận nhiều năm trong chiến tranh và cả sau chiến tranh, cả ở trong nước lẫn ngoài nước.

Học giả Mỹ bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lý luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng.

Thái độ trung dung thì nói rằng : Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.

Về vấn đề này, theo tôi thì Lý Quí Chung có nhận định khác biệt, khách quan hơn. Anh viết trong hồi ký rằng :

“Theo tôi, lúc ấy (chính biến miền Trung 1966) ông là một người yêu nước nên không có cơ sở để chấp nhận một số tố cáo của thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đối với thượng tọa Trí Quang khi ông còn là thủ tướng và phải đối đầu với thượng tọa Trí Quang trong biến động năm 1966 tại miền Trung. Trong hồi ký của mình (Buddha's Child - Đứa con cầu tự), tướng Kỳ cho rằng thượng tọa Thích Trí Quang muốn trở thành một kiểu Đức Giáo hoàng của Phật giáo tại Việt Nam và sở dĩ thượng tọa Trí Quang đòi lật đổ Nguyễn Cao Kỳ vì thượng tọa…nắm không được Nguyễn Cao Kỳ trong tay mình. Khi thượng tọa đưa bàn thờ “xuống đường” để chống chính phủ, và phát động sự nổi dậy của Phật giáo ở miền Trung, đặt người của mình là bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn vào chức vụ thị trưởng Đà Nẵng, thì thượng tọa Trí Quang bị tố cáo là hành động theo sự chỉ đạo của cộng sản. Trong hoạt động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, thượng tọa Trí Quang cũng đã từng bị tố cáo là một phần tử cộng sản. Nhưng sự kiện xảy ra tại chùa Xá Lợi đêm 21-8-1963 đã làm đảo lộn sự đánh giá về thượng tọa Trí Quang trước đó. Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo chống chế độ Diệm, chùa Xá Lợi được chọn làm “tổng hành dinh” của Phật giáo. Thượng tọa Trí Quang chỉ huy cuộc đấu tranh từ đây. Tại chùa Xá Lợi luôn có hàng ngàn nhà sư, ni cô, sinh viên đấu tranh và cả dân thường ở đó ngày đêm. Đêm 21-8-1963, Ngô Đình Nhu ra lệnh tấn công chùa Xá Lợi. Rất nhiều người bị bắt, bị thương, bị mất tích và cả bị giết chết trong cuộc đàn áp. Nhưng Ngô Đình Nhu không đạt được mục đích chính của mình là bắt thượng tọa Trí Quang: ông đã biến mất vào phút chót. Sau đó báo chí Mỹ mới khám phá ra rằng thượng tọa Trí Quang đã vào “tị nạn chính trị” trong Đại sứ quán Mỹ. Sự kiện này đã gián tiếp đính chính thượng tọa Trí Quang không phải là cộng sản. Và sau đó lại có lời đồn rằng thượng tọa Trí Quang là người của... CIA!?

Các tài liệu về Việt Nam chưa bao giờ nói rõ gốc tích của vị thượng tọa này. Theo nhà báo Mỹ Stanley Karnow, Thích Trí Quang từng bị người Pháp bắt giam vì tội làm cộng sản trước 1954 khi ông còn là một thanh niên. Đi tu, ông được đưa đi học ở Tích Lan (Ceylon) và sau đó trở về đi thuyết pháp khắp Việt Nam. Thượng tọa Trí Quang có mặt tại Huế từ tháng 5-1963 và trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật giáo nhằm lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Theo lệnh của Washington, đại sứ Mỹ Frederick Nolting khuyên ông Diệm nên hòa giải với thượng tọa Trí Quang, nhưng ông Diệm từ chối, cho rằng biến động ở Huế có bàn tay cộng sản nhúng vào. Nhưng sau đó trong cuộc phản công của bà Ngô Đình Nhu ngày 7-6-1963, bà lại tố cáo Phật giáo đấu tranh có sự giật dây của người Mỹ ở phía sau. Gián tiếp bà tố cáo thượng tọa Trí Quang là người của Mỹ…

Thật sự Thích Trí Quang là người của ai? Lúc đó tôi không có đủ điều kiện trả lời câu hỏi này, nhưng với tôi, thượng tọa Trí Quang trước hết là một nhà tu yêu nước.”

Trước khi kết thúc bài viết, xin ghi lại câu chuyện này:

Khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ và phải công nhận nền độc lập của một nước Việt Nam thống nhất qua Hiệp định Genève, Thầy Trí Quang là một trong những vị lãnh tụ Phật giáo thời kỳ dấn thân trong Phong trào Phật giáo Chấn hưng, đã nói với các đệ tử của ông rằng là: “Trước khi trở thành Phật tử, tất cả chúng ta đã là người Việt Nam”. Trong Tứ Ân, tôn chỉ của người phật tử thời kỳ chấn hưng, thì ơn Cha Mẹ, ơn Tổ Quốc, đứng hàng đầu, sau đó mới đến ơn Tam Bảo, ơn Chúng Sinh. Như thế, con đường đi tới giải thoát – niết bàn của mỗi Phật giáo đồ Việt Nam nhất thiết phải kinh qua một chặng đường là đất nước này, dân tộc này và cuộc đời này.

Phải chăng đó là con đường Thầy Trí Quang đã đi qua.

Sau 1975, đất nước đã có hòa bình, độc lập và thống nhất. Thầy Trí Quang quay về sống yên lặng tại Sài Gòn, trước ở chùa Ấn Quang, sau tĩnh tu tại một ngôi chùa ở Bình Thạnh, TP. HCM. Bên cạnh việc san dịch kinh sách, Thầy cũng hoàn tất một hồi ký đặc biệt về đời mình và cuộc vận động của Phật Giáo Việt Nam.

Thầy Trí Quang nay đã gần tuổi 100, quay về tĩnh tâm tại nơi hoạt động  cũ của mình và là nơi phát khởi cuộc đấu tranh chống Ngô Đình Diệm 1963 là chùa Từ Đàm ở Huế.

Riêng đối với trường hợp Hòa Thượng Thích Trí Quang, tôi rất tâm đắc ở câu nói cuối cùng trong Tự Truyện của ngài, rằng:

“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”

Riêng bản thân tôi vẫn mãi ghi nhớ và thấm thía về lời khuyên của Thầy Trí Quang, nhắn qua vợ tôi, ngay sau ngày 30/4/1975

Thầy và Thái như vậy là đã làm được một số việc trong cảnh dầu sôi lửa bỏng rồi. Thành phố này không bị tàn phá và đổ máu trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Nay họ đã có lớp người mới, phải ý thức rằng ta thực sự không còn cần thiết cho họ nữa. Đừng xông xáo ra quá. Hãy quay về với công việc chuyên môn của mình đi, may ra còn đóng góp được cái gì có ích chung…”.

Khi nghe tin Thầy vừa viên tịch ngày hôm qua 8/11/2019 thì cuốn sách “Giữa hai làn đạn – Thượng toạ Thích Trí Quang” sắp tới đây sẽ là nén hương lòng của tôi để mọi người hiểu rõ hơn về Thầy – một nhân vật lịch sử Việt Nam.

Hà Nội, Mùa Thu 2019

Nguyễn Hữu Thái

Tác giả bài viết nguyên là chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-1964), bản thân anh đã thực sự thức tỉnh và trưởng thành qua các cuộc đấu tranh của Phật giáo 1963 (chống chế độ độc đoán Ngô Đình Diệm) và 1966 (chính biến miền Trung chống Mỹ và Thiệu-Kỳ) do Thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo. Vào năm 1971, anh  được sự hỗ trợ của cả Thầy Trí Quang và Tướng Dương Văn Minh ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa dưới danh nghĩa hòa bình, hòa giải dân tộc, chuẩn bị cho sự ra đời của ‘Thành phần thứ Ba’. Vào sáng ngày 30/4/1975 giải phóng Sài Gòn, anh đã cùng Thầy Trí Quang thuyết phục nội các Dương Văn Minh bàn giao chính quyền cho cách mạng nhắm tránh cuộc đẫm máu và tàn phá vô ích cuối cùng.   

Người viết xác định ngay rằng mình là người ngoại đạo và chỉ hoạt động trong phạm vi Sài Gòn. Rất mong các học giả, các nhà Phật học và những Phật tử trong cuộc xem những trang viết này là một cảm nhận  lịch sử. Anh chỉ ghi lại những điểu chính bản thân mình mắt thấy tai nghe về các sự kiện lịch sử có liên quan đến Thượng tọa Thích Trí Quang và phong trào Phật giáo cùng các suy nghĩ của mình và bạn bè qua những lần được gặp gỡ, bàn thảo với Thầy, đặc biệt vào các năm cuối cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 9-11-19