BAN CHÁNH TRỊ TỈNH ĐỘI NĂM XƯA
Kỷ niệm 76 năm Ngày truyền thống
Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh An Giang
(26/8/1945 – 26/8/2021)
*
Trích hồi ký
“Chuyện đời tự kể”
Nguyễn Minh Đào
Giữa năm 1968 tôi làm chánh Văn phòng Huyện ủy Tịnh Biên nhận quyết
định về Văn phòng Tỉnh đội An Giang, Ban chỉ huy Tỉnh đội phong cấp đại
đội chánh trị bậc phó (thiếu úy), giao nhiệm vụ làm trợ lý chiến sự -
chức năng như chánh văn phòng, thay anh Trần Thế Lộc (Bảy Phong) nhận
nhiệm vụ khác. Anh Trần Minh Phương (Chín Phương) cán bộ Văn phòng Tỉnh
ủy về Tịnh Biên thay tôi.
Gần cuối năm 1969, Bộ Tư lệnh Miền điều động Sư đoàn 1 Anh hùng về
đứng chân chiến trường Bảy Núi, xây dựng “đầu cầu” ở địa bàn chiến lược
này, mở hành lang chuyển Sư đoàn về miền Tây. Những tháng ngày này các
cơ quan Tỉnh đội làm việc cật lực, bảo đãm các mặt để đưa một đơn vị lớn
hàng ngàn quân từ biên giới qua kinh Vĩnh Tế về đứng chân trên một vùng
căn cứ nhỏ hẹp, có nhiều khó khăn tưởng chừng không vượt qua được, nhưng
tất cả cũng qua đi…
Để lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị bộ đội tỉnh có mặt chiến trường Bảy
Núi như Đại đội 385 Trợ chiến, Đại đội 381 Đặc công và Tiểu đoàn A12
Quân khu biệt phái, tác chiến độc lập hoặc phối hợp với Sư đoàn, Tỉnh
đội thành lập Ban chỉ huy Tiền phương do anh Trần Thế Lộc (Bảy Phong) -
Tỉnh đội phó phụ trách. Khi ấy tôi nhận quyết định về công tác Ban Chánh
trị Tỉnh đội làm trợ lý tuyên huấn, với cấp đại đội chánh trị bậc trưởng
(trung úy) được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền phương phụ trách công tác
chính trị. Chúng tôi hành quân tới núi Som – Campuchia, phải mất hơn 1
tháng mới dùi qua được kinh Vĩnh Tế. Lúc đầu trú đóng vách núi Dài Ba
Chúc, sau cùng về bám trụ đồi Ô Tà Sóc xã Lương Phi.
Tháng 3 năm 1970, tướng Lon Nol đảo chánh lật đổ chế độ trung lập
của Quốc vương Sihanouk - Campuchia, Mỹ và quân Sài Gòn mở rộng chiến
tranh sang Campuchia. Lúc bấy giờ các cơ quan Tỉnh đội trú đóng chòm
vừng xã Nhơn Hội, huyện An Phú trên đất Campuchia sát biên giới. Bác Hồ
qua đời mấy tháng nay, trong cơ quan Tỉnh đội cũng như các cơ quan khác
còn nặng trĩu đau buồn, nay đối mặt tình thế mới, dồn ta vào thế “lưởng
đầu thọ địch”! Các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội trú đóng trên đất Campuchia
không còn an toàn! Địch ở đồn Nhơn Hội cách khu vực trú đóng cơ quan
Tỉnh đội chừng vài trăm mét, ngày đêm chĩa loa phóng thanh hướng biên
giới ra rã: “Hởi cán binh Việt cộng! Bác Hồ của các bạn không còn…
Campuchia thay chánh phủ mới, không chứa các bạn trên đất họ nữa, quân
lực Việt Nam cộng hòa sẽ tiến đánh các bạn bất cứ lúc nào…”
Trước một hai ngày xãy ra cuộc đảo chánh ở Campuchia, đoàn các bộ
lãnh đạo tỉnh An Giang bảy đồng chí và đồng chí phó bí thư Khu ủy Khu 8,
cải trang đi công khai trên đất Campuchia ven biên giới, từ căn cứ Khu
ủy Đồng Tháp Mười về An Giang, đến đồn Prek-Chẹy đối diện khu phố Long
Bình xã Khánh An, huyện An Phú bị quân đồn trú Campuchia bắt giử. Tỉnh
ủy cấp tốc cử người đến thương lượng, trả một số vàng khá lớn để chuộc
nhưng không thành. Không còn cách nào khác, Tỉnh đội tổ chức một phân
đội tinh nhuệ tuyển chọn trong Đại đội Đặc công và Đội Trinh sát Quân
báo tỉnh tập kích chiếm đồn Prek-Chẹy giải thoát các đồng chí bị bắt an
toàn. Tỉnh đội chỉ đạo trận đánh cố gắng hạn chế thương vong quân đồn
trú, không bắt tù binh, không thu vũ khí hay bất cứ thứ gì. Đặt dấu chấm
hết thời kỳ thân thiện ta với Campuchia.
*
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết.
Những tháng ngày trước, trong và sau khi Hiệp định có hiệu lực, trên
chiến trường An Giang chiến sự vẫn tiếp diển! Các lực lượng vũ trang ta
vẫn tiếp tục chiến đấu giành dân, giử đất chống địch phá hoại hiệp định
bảo vệ thành quả cách mạng. Những tháng ngày ấy, cơ quan Ban Chánh trị
Tỉnh đội, cũng như các cơ quan khác của tỉnh làm việc khẩn trương, sôi
động ngày đêm ở hậu cứ, cũng như ở chiến trường, phục vụ bộ đội chiến
đấu và sự lãnh đạo chỉ huy của Tỉnh ủy, Tỉnh đội.
Tháng 3 năm 1973 tôi được cử đi học khóa bồi dưởng cán bộ chánh trị
viên tiểu đoàn Trường Quân chính Quân khu 8 hai tháng, trường trú đóng
trên đất Campuchia, cách biên giới tỉnh Long An khá xa.
Tháng 2 năm 1974, Ban Chánh trị Tỉnh đội đóng chòm vừng – Mương Lỡ,
ven bờ tây sông Hậu cách biên giới vài cây số. Đồng chí Bảy Sửu cán bộ
cơ quan đi công tác bị Khmer đỏ bắt. Vừa nghe tin, tôi báo cáo và đề
xuất thủ trưởng Tỉnh đội cử một phân đội Trinh sát quân báo yểm trợ tôi
và một số đồng chí trong cơ quan đi tìm. Đồng chí Sáu Sên – chánh trị
viên Tỉnh đội, tức Nguyễn Văn Hơn - Sáu Hơn, sau này làm bí thư Tỉnh
ủy, chỉ thị tôi phải cố gắng tránh chạm súng với “bạn”. Chúng tôi qua bờ
Đông sông Hậu dàn đội hình chiến đấu, lục soát xóm nhà dân Campuchia bỏ
hoang và vườn cây phía sau, phát hiện bọn Khmer đỏ thấp thoáng di chuyển
lên hướng Cỏ Tiêu. Chúng tôi thận trọng bám theo chúng khá xa, đến khi
không thấy dấu vết, chúng tôi quay về lúc trời sắp tối. Tôi bàn anh em
đưa tôi gặp Ban liên lạc tỉnh (cơ quan đối ngoại với Campuchia) đóng bờ
Tây sông Hậu, nhờ liên hệ với “bạn” nắm tin tức đồng chí Bảy Sửu, tìm
cách lãnh đồng chí về. Tôi đang nói chuyện với đồng chí Ba Thảo – phó
Ban liên lạc, bổng nghe súng nổ rộ phía trên đó chừng 200 mét. Thì ra,
anh em Trinh sát quân báo cảnh giới bên này bờ mương đấu súng với bọn
Khmer đỏ chốt bên kia bờ mương. Thế là dự định nhờ Ban liên lạc tiếp xúc
với “bạn” tiêu tan! Đêm ấy, Ban liên lạc bỏ điểm lùi xuống phía dưới
đóng chung với Tiểu đoàn 1 bộ đội tỉnh. Tôi về báo cáo thủ trưởng Tỉnh
đội, bị đồng chí Sáu Sên “mần” cho một trận, vì để Trinh sát quân báo
“gây sự với bạn”!
Bọn Khmer đỏ giết đồng chí Bảy Sửu cướp khẩu súng ngắn! Đồng chí là
người thứ hai trong cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội, sau đồng chí Đình
Trung – trợ lý tổ chức đi công tác cũng bị Khmer đỏ sát hại trước đó
không lâu!
Sau đồng chí Bảy Sửu hy sinh, Ban Chánh trị Tỉnh đội xãy ra chuyện
buồn khác! Một chuyện không ai ngờ xãy ra. Sự việc như sau:
Đồng chí Hoài Phong – trợ lý tổ chức Ban Chánh trị Tỉnh đội có vợ
bị địch bắt đang ở tù. Những ngày đầu tháng 4 năm đó đồng chí đi công
tác đến Huyện đội An Phú dan díu với một nữ chiến sĩ hậu cần Huyện đội
tên Mai có chồng liệt sĩ, bị phát hiện. Ban Chánh trị Tỉnh đội và Huyện
đội An Phú nhiều lần khuyên ngăn hai người chấm dứt mối quan hệ tình ái
bất chính đó nhưng không kết quả, hai người quan hệ công khai như vợ
chồng, Lúc đó, cơ quan tổ chức sản xuất lúa ở rạch Cái Dơn gần biên giới
đến kỳ thu hoạch. Đồng chí Hoài Phong cùng đi thu hoạch lúa với cơ quan,
đưa cô Mai về ăn ở trong trại ruộng. Nghe anh em báo với tôi, hai người
có ý định cho cô Mai nghỉ công tác về sống ở Prek Chẹy là vùng biên giới
tiếp giáp khu phố Long Bình do địch kiểm soát. Tôi và một số đồng chí
trong cơ quan tiếp tục khuyên can đồng chí Hoài Phong vẫn không kết quả,
phải báo cáo đồng chí Lại Hữu Khai (Tư Khai) - Tỉnh đội trưởng, đồng chí
chỉ đạo phải cố gắng ngăn chặn không để đồng chí Hoài Phong đưa cô Mai
đi. Tôi phải đi gặp đồng chí Hoài Phong thuyết phục đồng chí về cơ quan
và động viên cô Mai về Huyện đội An Phú, hay cô ở tạm trại ruộng của cơ
quan không đi đâu cả, mọi việc sẽ giải quyết sau, theo chỉ đạo của thủ
trưởng Tỉnh đội.
Đêm ấy, tôi cùng đi với đồng chí Khanh – trợ lý bảo vệ từ cơ quan
xuống tới trại ruộng lúc 3 giờ 30 sáng, tôi đang ngồi uống nước nơi bếp
ăn, chờ đồng chí Khanh vào nơi đồng chí Hoài Phong và cô Mai ngủ, mời
đồng chí Hoài Phong ra tôi nói chuyện. Khi đồng chí Khanh vừa trở lại
chổ tôi ngồi nghe tiếng súng ngắn nổ liên tiếp mấy phát. Đó là những
phát súng định mệnh kết thúc cuộc đời Hoài Phong và cô Mai! Theo lời anh
em ngủ gần đồng chí Hoài Phong kể, sau khi bắn chết cô Mai, Hoài Phong
còn hỏi: “Mai, chết chưa em?”. Sau đó tự bắn vào đầu chết theo!
Ngày hôm sau, cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội họp, có mặt đồng chí
Bảy Phong – phó chánh trị viên Tỉnh đội và đồng chí Hồng Hưng – tỉnh đội
phó tham dự để kiểm điểm sự việc, làm rõ nguyên nhân vụ tự sát và rút
kinh nghiệm lãnh đạo ứng phó sự việc. Qua các ý kiến phát biểu, kể cả ý
kiến hai đồng chí trong Ban chỉ huy Tỉnh đội đa số nhất trí như sau
(theo Biên bản cuộc họp):
“…
“Đồng chí Hoài Phong và cô Mai tự sát là do hai người yêu nhau mù
quáng, bất chấp đạo lý, xem thường kỷ luật và dư luận nội bộ. Khi tổ
chức phát hiện khuyên ngăn không được tự do ăn ở với nhau, thì cảm thấy
“sống trên đời không còn ý nghĩa gì nữa” (theo di bút đồng chí Hoài
Phong để lại trong quyển sổ nhỏ) tự tìm cái chết. Hai người có ý định tự
sát trước đó, vì thấy cuộc tình hai người không lối thoát! Đó là quan
niệm sống vô cùng lệch lạc, bệnh hoạn!
“Việc lãnh đạo phát hiện đồng chí Hoài Phong và cô Mai quan hệ tình
ái bất chính không chấp nhận; nhất là khi phát hiện cô Mai có ý định về
vùng giáp ranh với vùng địch, tìm mọi cách ngăn chặn là đúng, vì không
thể đoán định trước, cô Mai có ra vùng địch đầu hàng hay không? Vì lợi
ích cách mạng không thể xử lý khác, để bảo đãm sự nghiêm minh trong Đảng
và bảo đãm bí mật căn cứ.
“Việc đồng chí Hoài Phong và cô Mai tự sát là một tổn thất hết sức
đáng tiếc, vì không ai dự đoán tình huống đó để ngăn ngừa. Do yêu cầu
bảo vệ căn cứ trên hết, tìm cách ngăn chặn khẩn cấp không để cô Mai ra
đi, dẫn đến hành động vội vã, tạo tình huống dồn ép làm hai người hiểu
lầm, cảm thấy không lối thoát chọn con đường tự tìm cái chết.
“…
*
Khi An Giang chia tách thành lập hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà
giữa năm 1973, tôi ở tỉnh Long Châu Tiền vẫn làm phó chủ nhiệm Ban Chánh
trị Tỉnh đội. Hồi ấy theo cơ chế tổ chức, chủ nhiệm chánh trị là phó
chánh trị viên Tỉnh đội kiêm nhiệm, nhưng đồng chí này thường bận công
tác lãnh đạo, chỉ huy ở Ban chỉ huy Tỉnh đội, công tác thường xuyên ở
Ban Chánh trị giao tôi đảm trách.
Năm 1974 các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội trú đóng Kế Sách ven sông Sở
Thượng trên đất Campuchia, cách biên giới đối diện thị trấn Hồng Ngự
không xa. Năm ấy là năm cuối cuộc chiến tranh, Tỉnh đội tổ chức Đại hội
chiến sĩ thi đua năm 1974 trong khí thế phấn khởi chưa từng thấy, trước
những chiến thắng dồn dập của ta trên khắp chiến trường miền Nam. Địa
điểm đại hội ở chòm vừng – nơi cơ quan Ban Chánh trị trú đóng. Tôi cử
một số đồng chí tìm mua nhà cũ bằng gổ vuông của dân Campuchia đem về
cất hội trường rất khang trang, bàn ghế làm bằng ván, trang trí khẩu
hiệu, cờ hoa rất đẹp, ban đêm chạy máy đèn sáng rực! Đại hội tiến hành
cuối tháng 6 năm 1974 vừa xong thì mùa nước đến. Mùa
khô năm 1975 tình thế cách mạng biến đổi rất nhanh, ta vào trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là người trong cuộc mà chúng tôi ai cũng bất
ngờ vì nghĩ đến năm 1976 mới giành toàn thắng, khi xây cất hội trường
Đại hội chiến sĩ thi đua chúng tôi dự định sử dụng cho cả kỳ đại hội năm
1975, nên không tiếc công sức làm vất vã gần 2 tháng mới xong, xử dụng
mấy ngày bỏ lại trong rừng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, nhóm công tác cơ quan chúng tôi cùng một đơn vị
bộ đội địa phương tỉnh tiếp quản thị trấn Hồng Ngự. Trong thị trấn mọi
sinh hoạt của người dân vẫn bình thường. Vài hôm sau chúng tôi chuyển
đến thị trấn Tân Châu, trở thành thị xã “thủ phủ” tỉnh Long Châu Tiền. Tôi
cùng vài anh em tạm trú trong căn phòng bỏ tróng khu cư xá gia đình viên
chức chế độ cũ. Hôm nọ, nghe tiếng người phòng bên cạnh nói chuyện vừa
đủ tôi “nghe lén”: “…Người ta tốt lắm, đối với dân rất vui vẻ, lể độ,
không nghe chưỡi thề như bọn mình…”. Chúng tôi sống những ngày đầu
tiên vùng mới giải phóng rợp bóng cờ đỏ sao vàng trong tâm trạng vô cùng
hồ hởi, phấn chấn như bài hát Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của
nhạc sĩ Xuân Hồng: “… niềm vui như đến bất ngờ. Ngày đi như trong đêm
mơ…!”. Khi
ấy, các cơ quan Tham mưu, Chánh trị Tỉnh đội trú đóng khu vực chi khu
quận Tân Châu chánh quyền Sài Gòn. Đại hội chiến sĩ thi đua các Lực
lượng vũ trang nhân dân tỉnh Long Châu Tiền năm 1975 tổ chức đầu năm
1976 tại rạp hát Tân Châu. Đại hội này Ban Chánh trị Tỉnh đội không phải
mất công sức xây dựng địa điểm và bảo đãm hậu cần như trong kháng chiến,
chỉ tập trung lo nội dung và khánh tiết, công việc được tiến hành nhanh
chóng, thuận lợi.
* Tôi
cũng như bạn bè, đồng chí từng có mặt trong cuộc trường chinh đánh giặc
cứu nước năm xưa nay còn sống, mỗi năm đến ngày 30 tháng Tư gợi nhớ
những kỷ niệm vui buồn không thể nào quên những năm dài chiến đấu xông
pha lửa đạn, những lúc “gồng mình” dưới trận bom pháo của quân thù;
Những khi nằm hầm, ngủ bụi, đói cơm, khát nước, những trận sốt rét kinh
người, những đêm hành quân xa mang vác nặng luồng rừng, vượt núi, băng
đồng; Và, nhớ thương khôn nguôi những đồng chí, đồng đội cùng mình đồng
cam cộng khổ, vui buồn, ấm lạnh có nhau, sống chết bên nhau trên chiến
hào, hay trên đường công tác đã ngã xuống khi tóc hãy còn xanh!
Tháng 12 năm 1975 tôi được thăng cấp đại úy, hồi đó tỉnh Long Châu Tiền
sĩ quan cấp đại úy đến cao nhất là trung tá đếm trên đầu ngón tay. Lần
đầu tiên khoát quân phục, đeo quân hàm kết hợp trông ai cũng đỉnh đạt,
khác hẳn anh bộ đội ở rừng ngày
nào!
Sau Đại hội chiến sĩ thi đua, tôi mới
có thời gian nghĩ phép mấy hôm về thăm quê sau bao năm xa cách.
Ngồi trên xe jeep đi từ Tân Châu sang phà Châu Giang qua Châu Đốc, vào
Nhà Bàn theo con đường lộ đá quen thuộc xuống Cây Mít, lòng tôi lâng
lâng một niềm vui khó tả…! Tôi ghé quê ngoại ở xóm chùa Long Hòa viếng
mồ mả ông bà, thăm bà con bên ngoại và ra xóm Cây Mít thăm bà con bên
nội. Suốt
chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước, làng quê tôi hết thế hệ này
đến thế hệ khác, người trước ngã người sau đứng lên. Biết bao gia đình
người thân ra đi không trở lại! Sau năm 1975 lại phải đương đầu với cuộc
chiến trạnh biên giới Tây Nam do bon Khmer đỏ gây ra. Qua ba cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, làng quê tôi lập được nhiều
thành tích vẽ vang, được Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng. Đau
thương, mất mát chồng chất! Cái giá để có ngày hôm nay, người dân quê
tôi phải đánh đổi quá lớn!
Năm 1976 tỉnh An Giang được tái lập,
tôi vẫn là phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội, về sau là Phòng Chánh
trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhiều năm gắn bó Lực lượng vũ trang nhân
dân tỉnh nhà trong công tác chánh trị quen người, quen việc tôi không
muốn chuyển đi đâu. Đùng một cái, các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh
đội tham khảo tôi chuyển ngành sang Văn phòng Tỉnh ủy. Các đồng chí nói:
Các ngành dân chính Đảng đang thiếu cán bộ, Văn phòng Tỉnh ủy cần một
cán bộ có khả năng nghiên cứu phụ trách Khối quân sự - an ninh, nhất là
theo dõi chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng khốc
liệt, phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Thế
là tôi hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Ban Chánh trị Tỉnh đội An Giang và
cũng là kết thúc cuộc đời binh nghiệp của tôi từ đó,/-
Long Xuyên, ngày 26 tháng 8 năm 2021
Mùa
đại dịch Covid-19
N.M.Đ
|