CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
Trên biên giới An Giang
Nguyễn Minh Đào
Tiến tới kỷ niệm 45 năm ngày Khmer Đỏ gây ra cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam trên toàn tuyến biên giới An Giang ngày 30/4/1977 –
30/4/2022 và kỷ niệm 43 năm quân ta đánh chiếm Phnom-Penh Campuchia kết
thúc cuộc chiến tranh này ngày 7/1/1979 – 7/1/2022. Theo yêu cầu cung
cấp tư liệu về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Ban biên tập Lịch
sử tỉnh An Giang. Tôi đăng lại bài “Cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam trên biên giới An Giang”. Bài viết trước vào tháng 1 năm 2014 có
những sự thật đau buồn tôi muốn quên đi, bạn bè tôi gọi là “nhạy cảm”
khuyên tôi không nên viết, nhưng tôi nghĩ đã là lịch sử phải khách quan
và chân thật, tôi không thể viết lấp lửng nửa thật nửa không. Ngạn ngữ
phương Tây có câu “Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì. Nhưng một nửa
sự thật không phải là sự thật”. Để tôn trọng sự thật lịch sử về cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam nay đã lùi xa, tôi mạnh dạn viết bài
này phản ánh tất cả những gì tôi nghe thấy hầu bạn đọc tham khảo.
Mời các bạn cùng đọc bài viết dưới đây để chúng ta có cái nhìn nhất
quán và nhớ lại những kỷ niệm đau thương về cuộc chiến tranh quỷ quái
khốc liệt này diển ra trên vùng đất biên cương tỉnh nhà.
*
1.- Đất nước Chùa Tháp – “Ốc đảo hòa bình”,
“Đất thánh Việt cộng”:
Lần giở trang sử sau Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, đất nước
Campuchia dưới triều đại Quốc vương Sihanouk theo đuổi đường lối đối
ngoại độc lập trung lập, người dân Campuchia sống trong hòa bình no ấm,
trong khi hai nước láng giềng Việt Nam và Lào bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ leo thang ngày càng ác liệt, thế giới gọi Campuchia là “Ốc đảo
hòa bình”.
Là nước trung lập, nhưng Quốc vương Sihanouk hết lòng ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, như chấp nhận các lõm căn cứ lực
lượng kháng chiến đứng chân ven biên giới, như cái gai trong mắt người
Mỹ và chánh quyền Sài Gòn nhưng không làm gì được, họ gọi đó là “đất
thánh Việt Cộng”. Campuchia còn chấp nhận miền Bắc Việt Nam nhập vũ khí
từ Liên Xô, Trung Quốc vào cảng Sihanoukville, mở đường vận chuyển đến
rừng tràm Hà Tiên về miền Tây Nam Bộ…
Ngày 18 tháng 3 năm 1970, nhân ông Hoàng Sihanouk đi nước ngoài,
tướng Lon đảo chánh lập chánh phủ thân Mỹ. Khi ấy, tôi công tác Văn
phòng Tỉnh đội trú đóng trên đất Campuchia sát biên giới xã Nhơn Hội,
huyện An Phú. Bác Hồ vừa qua đời mấy tháng, nay đối mặt với tình thế
lưỡng đầu thọ địch ai cũng lo buồn, trong khi đồn Nhơn Hội của quân Sài
Gòn phát loa chĩa về hướng biên giới ra rả ngày đêm: “Hởi cán binh
Việt cộng, Bác Hồ của các bạn không còn, Campuchia thay chánh phủ mới
không chứa các bạn trên đất họ, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ tấn công
các bạn bất cứ lúc nào…”.
Trước ngày xảy ra cuộc đảo chánh ở Campuchia, đoàn cán bộ lãnh đạo
tỉnh An Giang 7 người và 1 Phó bí thư Khu ủy Khu 8 cải trang đi công
khai từ căn cứ Khu ủy ở Kiến Phong về An Giang trên đất Campuchia, đến
đồn Prek-Chey đối diện khu phố Long Bình huyện An Phú bị lính Campuchia
bắt giữ, Tỉnh ủy cử người đến thương lượng trả một số vàng khá lớn để
chuộc nhưng không thành. Không còn cách nào khác, Tỉnh đội tổ chức một
phân đội tinh nhuệ tập kích chiếm đồn Prek- Chey giải thoát những người
bị bắt. Trận tập kích cố gắng hạn chế tối đa thương vong quân đồn trú,
không bắt tù binh và lấy bất cứ thứ gì. Tiếp theo cuộc đảo chánh của
tướng Lon Nol sau đó, đặt dấu chấm hết thời kỳ Campuchia thân thiện miền
Bắc và lực lượng kháng chiến miền Nam Việt Nam.
Vì sự sống còn của ta phải tiến đánh quân Lon Nol. Đồng thời giúp
“bạn” xây dựng thực lực:
Để mở rộng địa bàn đứng chân bảo toàn lực lượng, tiếp tục cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang buộc phải ra lệnh bộ đội địa
phương tỉnh với 2 tiểu đoàn thiếu và các đại đội độc lập đánh quân Lon
Nol sâu trên đất Campuchia, quân ta tiến đến đâu quân Lon Nol đều bỏ
chạy, làng mạc, phố phường nguyên vẹn, người dân làm ăn sinh sống bình
thường, trong thời gian rất ngắn chiếm giử một vùng rộng lớn hai tỉnh
Takeo và Kandal, thu rất nhiều vũ khí, quân dụng.
Việc ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol là bất khả kháng, vì sự
sống còn của ta. Để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Campuchia và “hợp
pháp hóa” việc ta đưa quân lên nước bạn, Tỉnh ủy chỉ đạo dựng “ngọn cờ
Sihanouk”, phát động nhân dân Campuchia đoàn kết cùng nhân dân Việt Nam
chống Mỹ và Lon Nol, được nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ. Các cơ
quan và bộ đội tỉnh di chuyển trú đóng sâu trên đất Camphuchia, đi đến
đâu cũng được người dân chào đón nồng nhiệt như người thân. Quảng đời
kháng chiến đầy hy sinh gian khổ của chúng tôi, cuộc “thập tự chinh”
đánh quân Lon Nol Campuchia như một cuộc du ngoạn. Chúng tôi trú đóng
trong nhà dân, người dân đối xử chúng tôi trọng thị xem như khách quí,
tới bữa cơm bà con trong xóm nhà nào cũng đem cơm, thức ăn đến bày ra
cho chúng tôi ăn, họ đứng xem chúng tôi ăn, rất vui khi chúng tôi ăn hết
thức ăn của họ… !
Sau đó khoảng một tháng, quân Sài Gòn tập trung binh lực mở các
cuộc hành quân “Cửu Long 1”, “Cửu Long 2”… đánh phá căn cứ của ta ven
biên giới và thọc sâu càn quét trên đất Campuchia bắn giết, cướp phá,
hãm hiếp phụ nữ gieo tội ác kinh hoàng. Các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội
phân tán nhỏ ém trong các khu rừng chồi, hay vườn cây ăn trái tránh địch
vô cùng vất vã nhiều ngày, may mà không bị tổn thất đáng kể về người,
nhưng thiệt hại vật chất khá lớn, vũ khí chiến lợi phẫm thu của quân Lon
Nol và cả của ta dự trử trước đó cất dấu ở căn cứ hậu cần trên đất
Campuchia ven biên giới Vạt Lài, huyện An Phú bị quân Sài Gòn truy tìm
phát hiện lấy hết! Trong khi đó các đơn vị bộ đội tỉnh tiến sâu trên đất
Campuchia trên một trăm cây số án ngử quân Lon Nol gần thị xã Takeo và
Kandal, quân Sài Gòn không với tới, gần như đứng ngoài vòng chiến sự.
Chiến tranh Việt Nam mở rộng sang Campuchia, nhưng Mỹ và quân Sài
Gòn không cứu được quân Lon Nol. Khi ấy, những người cộng sản Campuchia
(Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” tổ
chức bộ máy chánh quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang. Riêng Tỉnh
đội giúp “bạn” xây dựng mỗi tỉnh một tiểu đoàn bộ đội địa phương, huấn
luyện và trang bị vủ khí đầy đủ.
Cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” rất nhiệt tình, có hiệu quả mong
“bạn” vững mạnh cùng ta đứng chung chiến hào chống Mỹ, vì lợi ích nhân
dân hai nước. Lẽ ra “bạn” biết ơn sự giúp đỡ đó đối xử tốt với ta. Nhưng
không! “bạn” dần dần lộ rỏ ý đồ chống ta, ngang nhiên nổ súng khiêu
khích bộ đội, bắt thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta đi công tác lẻ tẻ. Các cơ
quan Tỉnh đội có 4, 5 cán bộ bị chúng bắt giết dã man như các anh Ba Kỳ
Nam, Chín Bình Ton, Đình Trung, Bảy Sửu…! Đối với ta thì vậy, trong nội
bộ chúng, Khmer Đỏ loại bỏ những cán bộ do ta đào tạo, hai tiểu đoàn
tỉnh An Giang xây dựng giúp, vừa làm lể bàn giao xong ta quay đi, chúng
tước vủ khí giải tán tức thì.
Thái độ thù địch của Khmer Đỏ đối với ta bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào ở
An Giang có mặt trên chiến trường Campuchia lúc đó không lạ gì. Nhưng
các báo cáo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội gởi Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 về
những vụ Khmer Đỏ nổ súng khiêu khích bộ đội và giết hại cán bộ ta đều
bị nghi ngờ không trung thực, cho rằng nếu có “va chạm” với “bạn”, xem
lại có phải lỗi trước hết do cán bộ, chiến sĩ An Giang gây ra, nên “bạn”
mới có phãn ứng như vậy!? Cho đến sau ngày giải phóng miền Nam 30 tháng
4 năm 1975, Khmer Đỏ bắn pháo, đưa quân đột kích bắn giết đồng bào, cướp
phá một số xóm ấp ven biên giới An Giang, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu
8 vẫn chưa xác định Khmer Đỏ là kẻ thù, cho đó là những “xung đột lẻ
tẻ”, “địa phương, cục bộ” và rằng “ Khmer Đỏ dù có xấu vẫn là “bạn” của
ta!!”.
2.- Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm
khốc:
Để chuẩn bị chiến tranh, Khmer Đỏ phát động binh lính và nhân dân
Campuchia gieo rắc tư tưởng hận thù dân tộc với Việt Nam, ra sức xây
dựng quân đội, sơ tán dân xa vùng biên giới, đào công sự, chiến hào, xây
dựng trận địa pháo, trận địa xuất phát tấn công, tập trung binh lực áp
sát biên giới… Mọi động thái đó diễn ra cách biên giới ta không xa nhưng
ta không hay biết, cho đến đêm 30 tháng 4 năm 1977, Khmer đỏ mở cuộc tấn
công đồng loạt toàn tuyến biên giới An Giang dài gần 100 km, mở màn cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc…! Các đồn biên phòng, bộ đội địa
phương tỉnh, huyện, dân quân tự vệ vùng biên giới…, nhờ sớm nhận diện
mạo kẻ thù, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, anh dũng đánh trả đẩy
lùi các mũi tấn công của địch hạn chế tổn thất. Nhưng, không hiểu vì sao
Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 8 và Trung ương không đánh gía đúng bản chất
phản động của Khmer Đỏ và kẻ đứng phía sau chúng, chủ quan mất cảnh
giác, không có kế hoạch đối phó chiến tranh.
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi nghe các vị lãnh đạo nói: Mỹ
là tên đế quốc sừng sỏ ta còn đánh bại, từ nay không một tên xâm lược
nào dám đụng đến Việt Nam…! Chủ trương sớm “ra quân” hằng vạn cán bộ,
chiến sĩ và buông lõng công tác quốc phòng những năm đầu sau giải phóng,
chứng minh sự khinh suất của Ban lãnh đạo cấp cao đất nước. Cho đến đêm
“định mệnh” 30 tháng 4 năm 1977, khi khói lửa chiến tranh đổ xuống khắp
vùng biên giới Tây Nam bị bất ngờ mới nhận mặt kẻ thù, điều quân khiển
tướng tổ chức chống đỡ trong thế bị động lúng túng! Tỉnh ủy, Tỉnh đội An
Giang dù quá hiểu rõ bản chất phản động của Khmer Đỏ từ những năm trước
1975, nhưng cũng không làm gì khác hơn là tổ chức phòng thủ thụ động
trên tuyến biên giới tỉnh nhà…!
Giửa năm 1977 tôi là đại úy Phó chủ nhiệm Phòng chánh trị Bộ chỉ
huy quân sự tỉnh An Giang (Tỉnh đội), nhận quyết định chuyển ngành sang
Văn phòng tỉnh ủy làm cán bộ nghiên cứu phụ trách khối Quân sự - an
ninh; đặc biệt theo dõi chiến sự chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo
thang ngày càng ác liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.
Suốt chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước đầy hy sinh gian khổ, đến
ngày thắng lợi hoàn toàn 30 tháng 4 năm 1975, quân dân ta lại phải tiếp
tục cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới hai đầu của Tổ quốc, tiếp tục hy
sinh xương máu hàng vạn chiến sĩ, đồng bào và biết bao làng mạc, phố
phường bị tàn phá…! Đây là cuộc chiến tranh “kỳ quái” giữa ta với người
“đồng chí” Campuchia (Khmer Đỏ) và với người “đồng chí” phương Bắc
(Trung Quốc) trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc sau đó.
Những năm 1975 – 1979 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vốn là “đồng
chí”, là “anh em như môi với răng” bổng trở thành kẻ thù của nhau, đến
mức Trung Quốc xúi giục Khmer Đỏ gây chiến tranh biên giới Tây Nam chống
ta và sau đó chính Trung Quốc đưa quân gây chiến tranh biên giới phía
Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”! Hồi đó, nghe Đảng nói: Trung Quốc có
“âm mưu bá quyền, bành trướng”, là “kẻ thù trực tiếp của Việt Nam”,
nhưng tôi cũng như không ít người khi ấy không hiểu ngọn nguồn vì sao
như vậy. Sau nầy có điều kiện đọc các tài liệu tham khảo; trong đó có
hồi ký của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ viết năm 2003
tôi tin là khách quan, chân thật.
Hồi ký có đoạn:
“…
“Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các họat
động ngoại giao nầy với tư cách là Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ - Bộ ngoại giao,
trực tiếp tham gia đoàn đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Paris
năm 1977, rồi ở Nữu ước năm1978, tôi thật sự đau xót vì ta bỏ lở mất cơ
hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển
đất nước, sau bao năm chiến tranh…
“Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều
kiện” của Mỹ và làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ
chức khu vực nầy, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho
nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt
chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979, nếu như Việt Nam
sau chiến thắng 1975 có một chiến lược”thêm bạn bớt thù”, thực sự cầu
thị hơn? Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập khối ASEAN mãi
ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật”.
“…
Đây quả là sai lầm có tính chiến lược trong đối ngoại của Đảng sau
năm 1975, đưa đất nước rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa!
Với trách nhiệm của mình, tôi theo dõi chiến sự qua báo cáo của Tỉnh đội
và các huyện – thị biên giới, thỉnh thoảng tháp tùng các vị trong Ban
Thường vụ tỉnh ủy, hoặc Tỉnh đội thị sát chiến trường tiếp xúc cán bộ,
chiến sĩ nghe anh em báo cáo: Khmer Đỏ là kẻ cuồng tín, vốn là “bạn” và
là “học trò” của ta, nên quá hiểu biết thủ đoạn chiến thuật của nhau,
quân ta lại bố trí đồn, chốt cố định, bộc lộ lực lượng phòng ngự thụ
động, Khmer Đỏ cơ động khi ẩn khi hiện… so đánh nhau với quân Sài Gòn
khó khăn, ác liệt hơn nhiều…! Cán bộ, chiến sĩ ta ở các đồn biên phòng,
bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự vệ phải dàn quân chốt chặn
ngày đêm trên tuyến biên giới, đối mặt với địch đánh trả hết đợt tấn
công nầy đến đợt tấn công khác. Nhiều đồn, chốt bị địch đánh chiếm, ta
đánh phản kích chiếm lại năm lần, bảy lượt, giành nhau từng bờ tre, ụ
đất… Căng thẳng nhất là mùa nước năm 1978, toàn tuyến biên giới nước
ngập mênh mông, quân ta phải đấp công sự nổi, ngày đêm sống và chiến đấu
dưới tầm hỏa lực địch! Khó khăn, gian khổ cùng cực, thương vong quân ta
tăng lên từng ngày, những cán bộ, chiến sĩ “gạo cội” bộ đội tỉnh còn
sống sau cuộc chiến tranh với Mỹ hy sinh rất nhiều, trong đó có những
đồng đội thân quen với tôi như Bé Tám, Tư Mưa, Sơn Bịch…! Dù hy sinh,
gian khổ đến mấy, cán bộ, chiến sĩ các Lực lượng vũ trang An Giang động
viên nhau quyết tâm bám trụ chiến đấu đến cùng, nhất định không rời bỏ
trận địa vì trước mặt là kẻ thù, phía sau là đồng bào, là quê hương, đất
nước ta không có chổ lùi…!
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thời gian không dài, nhưng tổn
thất về người và của quân dân ta ở An Giang vô cùng to lớn! Có hai sự
kiện đau thương dù thời gian lùi xa, nhưng bất cứ ai chứng kiến nhớ lại
không khỏi bồi hồi xúc động:
Thứ nhất, khi chiến tranh bùng phát, mặc dù có chủ trương ven tuyến biên
giới sơ tán người già, phụ nử, trẻ con, nhưng khi Khmer Đỏ đánh vỡ tuyến
phòng ngự của ta tràn vào chiếm Núi Tượng xã Ba Chúc 10 ngày trong tháng
4 năm 1978, phần lớn dân vẫn không sơ tán. Khmer Đỏ gây ra vụ thảm sát
kinh hoàng, giết chết 3.157 người! Nghe những nạn nhân sống sót kể
lại và xem các bức ảnh chụp sau khi quân ta đánh Khmer Đỏ rút
chạy, xác người chết nằm chất chồng la liệt khắp nơi…! Sau đó, Khmer Đỏ
đánh chiếm núi Phú Cường giết hại một số dân tôi không nhớ bao nhiêu,
trong đó có gia đình ông Sà Lam nuôi chứa tôi trong kháng chiến… Tội ác
Khmer Đỏ “Trời không dung đất không tha”!!
Vụ thảm sát dân Ba Chúc tôi nghĩ có phần trách nhiệm quân ta xây
dựng tuyến phòng thủ không đủ mạnh ngăn chặn Khmer Đỏ và đảng bộ chánh
quyền sở tại thiếu kiên quyết vận động, thuyết phục người dân sơ tán.
Ngày nay, các nhà viết sử trong tỉnh viết về sự kiện nầy thiếu tinh thần
cầu thị, chỉ đổ lỗi đồng bào xã Ba Chúc theo đạo Hiếu Nghĩa, vì “…mê tín
nên nghe lời bọn xấu chạy vào chùa Phi Lai đọc kinh cứu mạng không chịu
di tản…” (dự thảo Lịch sử tỉnh và huyện Tịnh Biên). Vài ngày sau vụ thảm
sát tôi tháp tùng đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh thăm xã Ba Chúc, đến Phi Lai
tôi thấy vết máu loang lổ khắp nơi!
Thứ hai, vụ di dân Khmer Bảy Núi, gần cuối năm 1978 khi chiến tranh đang
diễn ra có lệnh Trung ương: An Giang phải di dời khẩn cấp toàn bộ dân
Khmer Bảy Núi về định cư ở tỉnh Hậu Giang (cũ). Ban Thường vụ tỉnh ủy và
Ủy ban Nhân dân tỉnh triệu tập cuộc họp khẩn gồm các vị lãnh đạo hai
huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và các ngành tỉnh liên quan triển khai kế hoạch
thi hành. Các vị lãnh đạo tỉnh giải thích: Theo chỉ đạo Trung ương,
phải đưa dân Khmer Bảy Núi về các tỉnh phía sau “để ngăn cắt không cho
Khmer đỏ lợi dụng móc nối tổ chức chống ta”. Lý lẻ không thuyết phục,
nhưng không ai dám có ý kiến khác!
Việc di dời 70 ngàn dân Khmer với chặng đường dài hằng trăm cây số,
trong khi phương tiện vận tải của ta chủ yếu đường sông rất hạn hẹp vô
cùng khó khăn! Nhưng, khó khăn nhất là giải thích, động viên dùng “con
ngáo ộp” Khmer Đỏ hù dọa thúc ép đồng bào chịu rời bỏ nhà cửa, ruộng
đồng ra đi, vì họ nào muốn xa lìa nơi chôn nhao cắt rún, sinh cơ lập
nghiệp từ bao đời trên mãnh đất nầy, trong khi hiểm họa Khmer Đỏ lúc ấy
không như cán bộ tuyên truyền. Có mấy lần tôi cùng các vị lãnh đạo Tỉnh
ủy vào Bảy Núi kiểm tra đôn đốc việc di dân, chứng kiến cảnh người dân
than khóc, kể lể trước khi ra đi trong lòng vô cùng đau xót thương cảm
đồng bào, nhưng lệnh là phải thi hành không có chọn lựa nào khác!
Thực hiện cuộc di dời dân không nhanh gọn như kế hoạch, kéo dài đến
đầu năm 1979, quân ta mở chiến dịch tổng phản công tiến chiếm Phnom
Phenh, đưa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam lên đất Campuchia vẫn chưa
xong. Khi ấy ông Nguyễn Văn Linh Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Dân vận
đến An Giang, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh ủy, ông Lê Văn
Nhung (Tư Việt Thắng) Bí thư tỉnh ủy báo cáo với ông Nguyễn Văn Linh
việc di dân Khmer, đề nghị ông cho đình chỉ, vì ta đã đánh chiếm Phnom
Phenh, hiểm họa Khmer Đỏ không còn. Ông Nguyễn Văn Linh viết điện mật
gởi Bộ Chính trị chuyển đề nghị Tỉnh ủy. Hôm sau, điện mật của Tổng bí
thư Lê Duẩn gởi phúc đáp viết vắn tắt: “Việc nầy (di dân Khmer) do anh
Sáu Thọ (Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách chỉ đạo chiến trường
Tây Nam) chịu trách nhiệm, phải có ý kiến của anh…”! Thế là việc di dân
vẫn phải tiếp tục…!
Chủ trương di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang xuất phát từ
quan điểm không tin người Khmer Bảy Núi, cho rằng nếu không di dời vào
sâu nội địa họ sẽ theo Khmer Đỏ chống ta, không phải để “bảo đãm an
toàn, tính mạng, tài sản của dân” như các nhà viết sử trong tỉnh viết.
Tôi nói chuyện nầy, những người cùng thời với tôi còn sống trong tỉnh
không lạ gì.
Việc đưa 70 ngàn dân Khmer an cư lập nghiệp từ bao đời ở Bảy Núi về
vùng đất lạ, khác nào một cuộc “đi đày”, làm tiêu tan tài sản, nhà cửa,
ruộng vườn, đảo lộn cuộc sống người dân, mà các vị lãnh đạo cấp cao đất
nước khi ấy ra quyết định bất chấp hậu quả, bất chấp lòng dân và chẳng
đếm xỉa ý kiến đảng bộ, chánh quyền địa phương! Khi còn đánh nhau với
Khmer Đỏ ở biên giới thì nói sao cũng được, nhưng khi không còn đánh
nhau vẫn phải tiếp tục cuộc di dời dân Khmer, thì các nhà viết sử giải
thích sao đây!?
Sau khi đưa dân Khmer đi chuyến cuối cùng, khắp vùng Bảy Núi các
phum sóc người Khmer nhà cửa, chùa chiền hoang tàn, xơ xác…! Mặc dù tỉnh
Hậu Giang (cũ) tiếp nhận người Khmer tích cực giúp đỡ tạo điều kiện cho
họ ổn định cuộc sống, nhưng không thể kham nỗi, phát sinh nhiều vấn đề
ngoài tầm khả năng của tỉnh. Vã lại, người Khmer Bảy Núi ở vùng cao đã
quen, nay đưa họ về sống đồng bằng không thích nghi, vài tháng sau toàn
bộ 70 ngàn dân Khmer lục tục dắt díu nhau trở về Bảy Núi! Có ai nhìn
thấy cảnh đồng bào tay xách nách mang, gánh gồng tài sản, lùa dắt trâu
bò đi bộ hằng trăm cây số trở về phum sóc cũ, mới thấu hiểu cãm thương
nổi gian nan, vất vả của đồng bào!! Về đến nơi chôn nhao cắt rún đồng
bào trắng tay, không nhà ở, không có gì để ăn, đau ốm không thuốc chữa
trị, trẻ em không có trường đi học… đồng bào lâm vào cảnh khốn cùng,
chánh quyền phải cứu đói và giải quyết mọi hậu quả! Nhưng trong điều
kiện khi ấy ngân sách tỉnh nghèo nàn, dù có cố gắng cũng chẳng thấm vào
đâu, đồng bào phải tự xoay sở để sống còn…! Tôi nghe có không ít người
chết đói và chết vì bịnh tật do thiếu đói, nhưng không biết bao nhiêu!?
Kế hoạch di dân Khmer phá sản, ta không thể bắt đồng bào quay trở
lại Hậu Giang. Tỉnh ủy báo cáo Trung ương, nhận điện chỉ đạo của Trung
ương: Tỉnh phải bố trí lại nơi ở của đồng bào Khmer, tập trung ở từng
khu vực sâu trong nội địa, không để ở rải rác các phum sóc cũ, nhất là
các phum sóc gần biên giới, để “Khmer Đỏ không thể thâm nhập…”. Lại tiếp
tục một chủ trương sai lầm, nhưng tỉnh không thực hiện được và Trung
ương cũng lờ đi… !!
Ngày 7/1/1979 quân ta đánh chiếm Phnom Penh, 3 ngày sau tôi tháp
tùng đoàn cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang thăm thị xã Tà-keo.
Trên đường đi từ thị trấn Tịnh Biên theo Quốc lộ 2 lên thị xã Tà Keo,
hai bên đường làng mạc, phố phường hoang vắng, đó đây xác người còn nằm
phơi nắng giửa trời, từng tốp xe bọc thép, xe vận tải chở quân của ta
chạy trên đường, hay cụm lại nghỉ ngơi dưới bóng râm. Thị xã Tà Keo như
một thành phố chết, không điện nước, không chợ búa, không bệnh viện,
không trường học, nhà cửa, phố phường xơ xác, tiêu điều…Người dân từ đâu
đó lục tục kéo về đi thất thểu trên đường, quần áo rách rưới toàn một
màu đen…! Đây là lần thứ hai tôi cùng đồng đội đặt chân lên Campuchia,
không như lần đầu năm 1970 đánh Lon Nol, người dân Campuchia vui mừng
chào đón “anh bộ đội Việt Nam” như người thân, lần này tôi cãm nhận
trong ánh mắt họ như vừa vui, vừa e dè, ngại ngùng điều gì đó…! Tôi cùng
đoàn đi xem nơi ở của Tà Mốc - tên đồ tể Khmer Đỏ và xem toà nhà của cố
vấn Trung Quốc giửa hồ nước như nhà thuỷ tạ.
Theo sự phân công của Trung ương, An Giang chịu trách nhiệm tỉnh Tà
keo, tổ chức đoàn chuyên gia chánh trị và đoàn chuyên gia quân sự mang
phiên hiệu Đoàn 9905, cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp tục
truy quét tàn quân Khmer Đỏ và giúp bạn xây dựng lực lượng, phát triển
kinh tế, xã hội… từ con số không kéo dài suốt 10 năm, tổn thất về người
và của không đo đếm được!
Cuộc kháng chiến chống Mỹ chấm dứt hòa bình được lập lại, những tưởng
bước vào thời kỳ xây dựng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển
kinh tế, người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc… ! Thế nhưng, niềm tin
và hy vọng dần dần tan theo mây khói, do những chánh sách đối nội sai
lầm của Đảng, làm chồng chất thêm khó khăn sau chiến tranh nhân dân
nghèo đói, cùng với sai lầm trong đối ngoại đất nước bị bao vây cấm vận
và rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa với hai người “đồng chí”
láng giềng phương Bắc và Tây Nam…!
Những sự thật cần biết:
Năm 2014 tôi có xem phim truyền hình do Đài HTV9 thành phố Hồ Chí
Minh chiếu, bộ phim có tên“Biên giới Tây Nam – cuộc chiến bắt buộc”. Đạo
diển Lê Phong Lan – đạo diển bộ phim mong muốn cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam được “giải mật”, nhưng qua những gì tôi biết, tuy chỉ trong
phạm vi địa phương cũng đủ nói lên tất cả, tôi thấy không có gì bí mật,
vì người dân không dám nói và Đảng không muốn nói, hay nói không đúng sự
thật, thành ra chuyện không bí mật thành bí mật.
Gọi đây là “cuộc chiến bắt buộc” là chính xác, vì Khmer Đỏ vô cớ
xăm phạm biên giới Tây Nam nước ta, buộc ta đánh trả tự vệ và tổng phản
công đánh chiếm Phom-Phenh để loại trừ hiểm hoạ Khmer Đỏ cho đất nước.
Sau đó, giúp những người Khmer trong nhóm Hunsen, Heng Samrin…ly khai
Khmer Đỏ. Họ với hai bàn tay trắng như Khmer Đỏ năm 1970, ta hết lòng
hết sức giúp họ từng bước phát triển trưởng thành, xây dựng đất nước
Campuchia như hôm nay. Điều quan trọng là giúp họ nhằm xây dựng một thể
chế chánh trị thân thiện với ta, để bảo đãm sự bình yên lâu dài vùng
biên cương này của Tổ quốc.
Nói “cuộc chiến bắt buộc” là đúng, dù cho Khmer Đỏ thực hiện chánh
sách diệt chủng với người dân của chúng, nhưng nếu không động chạm đến
biên giới lãnh thổ nước ta, liệu ta có đưa quân đánh chúng phải chịu “sa
lầy” hao người tốn của trong 10 năm, còn mang tiếng “xăm lược” không?
Theo tôi là không! Nên nhớ, thời điểm ấy tình cảnh nước ta “rối như nồi
canh hẹ”, giải quyết những vấn đề trong nước và ngoài nước của ta đã hết
hơi hết sức, còn đâu lo chuyện “ăn cơm nhà vát tù và hàng tổng”. Làm gì
có chuyện tự dưng đưa “bộ đội tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế
cao cả trên nước bạn”, “cứu nhân dân Campuchia thoát hoạ diệt chủng
Khmer Đỏ”.
Bài phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin tại lể kỷ
niệm 35 năm Ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Khmer Đỏ tại Hà Nội ngày
5/1/2014 ông nói: “Chỉ có đất nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tự nguyện đưa con cháu và những người thân
yêu của mình đến giúp giải phóng và cứu tính mạng của người dân
Campuchia trong lúc vô vàn nguy nan…”. Đại diện cho người dân
Campuchia ông phải nói như vậy và nói như vậy là đúng, nếu ta không tiêu
diệt Khmer Đỏ thì làm gì có đất nước Campuchia ngày nay, nhưng đó chỉ
phản ánh phần bề nổi sự thật lịch sử, chưa phải căn nguyên việc ta can
thiệp vào Campuchia.
Đạo diển Lê Phong Lan nói: “…Sau cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi một
phần quân đội của chúng ta bị đánh dạt qua biên giới Campuchia, lập căn
cứ bên đó thì nhiều khu tập kết vũ khí, đạn dược của chúng ta bị Khmer
Đỏ tấn công, giết người và cướp đi hết”. Sự thật là trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ từ sau Đồng khởi năm 1960, cho đến Lon Nol đảo chánh ở
Campuchia năm 1970, lực lượng kháng chiến các tỉnh ven biên giới giáp
Campuchia, kể cả của Miền (R), khi nào bị quân Mỹ và Sài Gòn càn quét,
đánh phá gặp khó khăn thì thường chạy sang trú ẩn ven biên giới trên đất
Campuchia trong thời gian nhất định hoặc lâu dài, kể cả xây dựng căn cứ
hậu cần ở đó, không phải chỉ đến sau trận Mậu Thân 1968. Và, như tôi
viết ở trên, năm 1970 khi ta buộc phải đưa quân lên Campuchia đánh Lon
Nol, cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ) thực lực chưa có gì, chúng không có
khả năng và cũng chưa ra mặt chống ta, nên không có chuyện tấn công giết
người và cướp vũ khí của ta khi ấy.
Báo Tuổi Trẻ nêu câu hỏi: “Tại sao lại cố ý kích động sự thù hằn
giửa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia?” và đạo diển Lê Phong Lan hỏi: “Đằng
sau cuộc chiến nầy là ai?” .
Như tôi viết ở trên, năm 1970 bất đắc dĩ ta đưa quân lên Campuchia
đánh Lon Nol vì sự sống còn của ta và giúp Khmer Đỏ dần dần xây dựng
phát triển thực lực “đủ lông đủ cánh”, thì cũng dần dần Khmer Đỏ bộc lộ
dã tâm chống Việt Nam, cho đến ngày 30/4/1977 ồ ạt đưa quân tấn công
toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Và, kẻ đằng sau Khmer Đỏ chính là
Trung Quốc, không có Trung Quốc Khmer Đỏ không dám liều lĩnh gây chiến
tranh biên giới chống ta với qui mô chừng ấy, nhưng Trung Quốc nhúng
“bàn tay lông lá” vào nắm Khmer Đỏ từ lúc nào và vì sao Trung Quốc xúi
giục Khmer Đỏ chống ta và sau đó xua quân gây chiến tranh biên giới phía
Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”. Cho đến sau khi kết thúc hai cuộc
chiến tranh nầy một thời gian khá dài, Trung Quốc còn tiếp tục “bảo trợ”
Khmer Đỏ, đấu tranh giử ghế chúng ở Liên hiệp quốc, làm cho cộng đồng
quốc tế ngộ nhận “Việt Nam xâm lược Campuchia”. Ngày nay sự thật thế nào
đã rõ, tôi nghĩ cộng đồng quốc tế còn nợ Việt Nam một lời xin lỗi!
Trả lời câu hỏi của báo Tuổi Trẻ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “Để
lấy lòng dân và tập trung quyền lực thì kích động thù hằn dân tộc và gây
chiến là biện pháp đơn giản nhất…”. Ý kiến nầy tôi xin trao đổi làm rỏ
thêm:
Quê hương An Giang của tôi là vùng biên giới giáp Campuchia, thuở
nhỏ tôi đã biết người dân hai nước ở hai bên biên giới quan hệ gần gũi
như người láng giềng; Trong kháng chiến chống Mỹ tôi từng sống cùng đồng
chí, đồng đội của tôi ở vùng biên giới trên đất Campuchia, người dân
Campuchia rất có cảm tình với chúng tôi, nếu không chúng tôi không thể
sống yên ổn ở đó và những năm tháng đánh quân Lon Nol tôi cũng có mặt,
chúng tôi rất hiểu tấm lòng người dân Campuchia với Việt Nam. Chỉ có một
bộ phận nhỏ người Campuchia nhẹ dạ, cực đoan bị thế lực phản động trong
nước và nước ngoài, sau nầy là Khmer Đỏ tuyên tuyền lôi kéo theo chúng
chống Việt Nam, chứ đa số người dân Campuchia rất thân thiện với Việt
Nam. Khmer Đỏ xây dựng quân đội chuẩn bị chiến tranh chống ta hàng vạn
quân, nhưng chắc chắn không phải tất cả đều tự nguyện theo chúng chống
Việt Nam. Khmer Đỏ hoặc thế lực nào khác ngày xưa, hay phe đối lập Sam
Rainsy ngày nay ở Campuchia muốn chống Việt Nam bao giờ chúng cũng giở
luận điệu tuyên truyền moi móc chuyện lịch sử xa xưa, kích động hận thù
dân tộc rằng “Việt Nam chiếm đất Campuchia…”, nhưng hiệu quả luận
điệu ấy không như chúng mong muốn.
Tôi đồng ý ý kiến đạo diễn Lê Phong Lan: “…Lịch sử là cái đã
qua, nhưng chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử cho hôm nay và mai
sau…”. Và, đã là lịch sử thì phải khách quan, chân thật, che dấu hay
“vo tròn, bóp méo” sự thật lịch sử là có tội con cháu mai sau./-
Long Xuyên, ngày 24 tháng 3 năm 2022
Trích hồi ký Chuyện đời tự kể
N.M.Đ |