QUẢNG ĐỜI BINH NGHIỆP CỦA TÔI

Tưởng niệm hương hồn ông bà ngoại, các cậu và Ba Má tôi

 

Hồi ký

Nguyễn Minh Đào

 

1

     Mùa Thu năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập Quảng trường Ba Đình – Hà Nội. Những tháng ngày cách mạng sôi sục này, quê tôi làng Nhơn Hưng, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc như ngày hội lớn, mọi người hồ hởi đứng lên cướp chánh quyền, xây dựng và bảo vệ chánh quyền nhân dân còn non trẻ. Những cuộc mét tinh, biểu tình sôi nỗi của đồng bào các giới diễn ra liên miên. Các hoạt động của Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc như tập quân sự, tập võ, đánh trận giả… rất hào hứng, khuấy động không khí rực lữa cách mạng khắp xóm làng!

     Những ngày được sống trong độc lập, tự do thật ngắn ngũi! Giặc Pháp trở lại xăm lược nước ta lần thứ hai. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 tiếng súng kháng chiến của quân dân Nam Bộ nổ khắp nơi. Chánh quyền cách mạng ra lệnh mỗi nhà phải có tầm vong vạt nhọn, dây trói, mõ tre sẳn sàng đánh Tây nhảy dù, hay có sự biến gì phải đánh mõ báo động và khi nghe tiếng mõ bất cứ lúc nào cũng phải hưởng ứng đánh theo. Cứ vài ba đêm khắp làng quê tôi tiếng mõ vang dội kéo dài…

     Giặc Pháp sắp đánh đến nơi, gặp lúc nạn thiếu đói, dịch bệnh…Kẻ xấu loan truyền những điều nhảm nhí, bịa đặt nào là “quỹ vương hiện hình giữa ban ngày”; nào là “sẽ tối trời tối đất bảy ngày đêm”; nào là “sắp đến ngày tận thế”… khiến cho dân tình xôn xao, lo lắng. Nhiều nhà nấu cơm phơi khô, dự trữ muối, gạo, nước uống… phòng khi có biến!

     Tiếng súng đánh nhau từ Châu Đốc vọng về làng quê tôi, người ta tụ năm, tụ ba bàn tán lo âu! Rồi gót dày quân xăm lược lần lược dẫm tới Núi Sam, Nhà Bàn và khắp vùng Bảy Núi. Chúng thẳng tay bắn giết, cướp bóc, hãm hiếp phụ nử...! Lực lượng vũ trang cách mạng còn non trẻ, không đủ sức ngăn bước tiến quân giặc rút về rừng núi để bảo toàn lực lượng. Sau đó bí mật trở lại đánh du kích, võ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân…

     Tôi nhớ, một buổi chiều trời sẩm tôi nghe Ba Má và chị Hai tôi nhỏ to chuyện trò với nhau. Được tin cậu Sáu tôi – ông Đặng Hữu Hào, bí danh Nhậm vừa hy sinh ở Núi Sam, khi giặc Pháp ở Châu Đốc bất ngờ càn quét vào. Cậu được người bảo vệ chống xuồng chạy ra đồng lúa đang mùa nước nổi, địch phát hiện bắn theo cậu trúng đạn hy sinh!

     Sau này, theo lời ông Hiếu Liêm phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang – Người hoạt động cùng thời với cậu Sáu tôi kể: Ngày cậu hy sinh là 19 tháng 7 năm 1946, đang là phó bí thư Quận ủy Châu Phú ở tuổi 31 (sinh năm 1915). Hồi tôi còn nhỏ, ít khi gặp cậu nhà Ngoại, nhưng vẫn nhớ cậu dáng người trung trung, da hơi sậm, khá điển trai, ít nói… Không  rõ cậu học ở đâu mà viết và nói thành thạo tiếng Khmer, biết cả tiếng Pháp. Cậu làm cách mạng thuộc lớp người “tiền khởi nghĩa”, sống độc thân. Cậu là người con đầu tiên của Ngoại tôi ngã xuống trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc!

     Sau Hiệp định Giơ-neo-vơ năm 1954, từ khu tập kết Cà Mau tôi trở về quê nhà sinh sống với gia đình trong cảnh nghèo khó, Ba tôi xoay sở làm ăn liên tiếp thất bại, nợ nần chồng chất! Má tôi làm bánh, nấu xôi giải nắng dầm mưa gánh bán rong đầu làng cuối xóm, chắt chiu từng đồng lo toan cuộc sống gia đình! Tôi, cùng anh rể thứ Ba và các em tôi tới mùa đi cắt lúa mướn, hay trồng rẫy khoai, dưa… Làm bất cứ việc gì bằng sức lao động của mình, những mong chia sẻ phần nào gánh nặng cuộc sống gia đình với Ba Má tôi.

     Một hôm, không biết từ đâu tới một gã trung niên nhìn bà con với anh rể tôi tên Hoàng Lan. Y nói năng bặt thiệp, nhã nhặn chiếm được cảm tình với gia đình. Ở nhà tôi mấy hôm, Hoàng Lan bày tôi làm bông giấy bán trong dịp tết sắp đến. Đang lúc sinh kế bế tắc, tôi nghe lời y mượn cô Hai Hoa có quan hệ bà con xa gọi tôi bằng cậu 200 đồng tiền Bảo Đại, ra Châu Đốc mua giấy pơ-luya và giấy kiếng màu làm bông giấy. Tôi và Hoàng Lan làm gần một tháng tết đến, đem vô nhà bác Tư Văn ở xã Lương Phi – Một lão nông bạn thân Ba tôi, Ba đang ở nhờ mua tre làm lọp chuẩn bị đặt bắt cá đồng tràm mùa nước xuống. Bông giấy bọn tôi làm bán rẻ, nhưng nhìn không bắt mắt, mặc dù gia đình bác Tư Văn rất nhiệt tình “quảng cáo”, “tiếp thị” mà không mấy ai mua. Vốn liếng vay mượn và công sức bỏ ra đi đứt! “Dự án” sản xuất bông giấy thất bại. Hoàng Lan lại đề xuất nấu dầu khuynh diệp bằng lá tràm có sẳn trong rừng tràm bạt ngàn, chỉ tốn công hái về bỏ vào nồi chưng cất lấy tinh dầu. Hoàng Lan làm một bài  toán “trình” Ba tôi rất thuyết phục, “hiệu quả kinh tế” thấy rõ! Ba tôi “phê chuẩn” dự án, chạy vạy mượn vốn mua thùng phuy và các thứ khác làm nồi nấu, xây lò… theo “thiết kế” của Hoàng Lan.   

2

     Tháng 12 năm 1957 tôi làm nhân viên Văn phòng Ban cán sự Đảng quận Tịnh Biên (sau này là Huyện ủy Tịnh Biên) trú đóng bí mật nhà Ngoại tôi ở ấp Đông Hưng, xã Nhơn Hưng (huyện Tịnh Biên). Tôi trúng tuyển quân dịch, nhân dịp này ông Năm Mạo bí thư Ban cán sự quyết định đưa tôi vào quân đội Sài Gòn làm công tác nội tuyến. Trước khi lên đường, ông chỉ đạo Chi bộ văn phòng Ban cán sự kết nạp tôi vào Đảng. Lể kết nạp được cử hành trong nhà tôi, do ông Mạnh Hà bí thư Chi bộ văn phòng Ban cán sự chủ trì, cùng có mặt hai đảng viên giới thiệu là hai người cậu dìu dắt tôi tập tễnh trên đường cách mạng, là cậu Mười Đặng Văn Ngưng và cậu Út Đặng Chí Kiên. Lá cờ Đảng bằng hơn hai bàn tay treo trên vách lá đơn sơ, tôi trịnh trọng đứng dưới cờ tuyên thệ theo đúng thủ tục. Ước nguyện bao năm được đứng vào hàng ngũ Đảng của tôi nay mới thành hiện thực!

     Sau lể kết nạp Đảng mấy hôm, ông Năm Mạo bí thư Ban cán sự triệu tôi đến gặp ông tại khu vườn nhà cậu Ba Phương – ông thầy giáo dạy tôi học vỡ lòng khi xưa, nhà ở cùng xóm nhà Ngoại tôi. Ông Năm Mạo làm việc với tôi gần một tuần, phổ biến tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam; tập huấn yêu cầu, nhiệm vụ, phương châm, phương thức công tác nội tuyến với phương châm “chui sâu, trèo cao”… Sau cùng, ông công bố quyết định Ban cán sự phong tôi cấp trung đội trưởng, tức chuẩn úy. Căn dặn tôi những gì cần phải làm và cần phải tránh, với tình cảm và trách nhiệm của người lãnh đạo, của bậc cha chú đối với một đảng viên, một đứa cháu trước lúc đi xa. Quảng đời binh nghiệp của tôi bắt đầu từ đó.                                                      

     Nghị quyết của Đảng buộc tôi phải chấp hành. Ba Má tôi khi biết sự việc rất băn khoăn: “Nhà mình xưa nay cùng đi một hướng theo Đảng, theo Bác Hồ. Nay con đi lính ngụy tuy làm nhiệm vụ Đảng giao, nhưng bà con làng xóm đâu biết, họ sẽ chê cười con, chê cười gia đình mình có con đi lạc đường!”                                                       

     Một năm làm lính quân dịch, tôi trãi qua hai tháng huấn luyện cơ bản ở quân trường Quang Trung. Sau đó, họ đưa tôi học khóa kế toán binh đoàn ở Thủ Đức hai tháng nữa và phân bổ tôi về Sở quân nhu quản trị số 6 thành Hanh Thông Tây (Gò Vấp) làm kiểm số viên, cho đến ngày mãn hạn quân dịch giải ngủ tháng 12 năm 1958. Thời gian và hoàn cảnh khách quan chưa cho phép tôi có thể làm được gì nhiều, ngoài việc vận động một số anh em binh sĩ cùng đơn vị cảm tình cách mạng, đoàn kết giúp đở nhau trong cuộc sống, đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt ở quân trường…

     Trước khi giải ngũ, tôi nghỉ phép về nhà liên lạc với tổ chức mới biết bà Ngoại qua đời vì bệnh hiểm nghèo! Tôi rất đau buồn! Nghe gia đình kể: Ngày tôi lên đường đi quân dịch bà Ngoại đi chợ, khi về biết được bà khóc, gọi tên Ngô Đình Diệm chửi bắt cháu bà đi lính. Ông bà Ngoại tôi là quần chúng chí cốt của Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến, ngoài công nuôi chứa cán bộ, bộ đội, đóng góp tiền của… Ông bà Ngoại hiến dâng năm người con trai cho Đất nước, ba người hy sinh. Bà được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.                                                    

3

     Tôi đi lính quân dịch thi hành “Sứ mạng thầm lặng” của Đảng – Nói theo ngôn từ các nhà hoạt động tình báo, mang trong lòng niềm tin nhờ “chiếc đũa thần” dầu khuynh diệp gia đình tôi sẽ thoát nghèo! Khi tôi ra trường huấn luyện làm kiểm số viên ở Sở quân nhu quản trị số 6, Ba tôi lên Sài Gòn tìm thăm và cho biết công việc chuẩn bị đã xong, sắp sửa nấu thử mẻ dầu đầu tiên. Nhân đi thăm tôi, Ba đến cơ sở dầu gió khuynh diệp của bác sĩ Tín tìm hiểu giá cả và việc bán dầu.

     Đã qua mấy mươi năm tôi không quên được hình ảnh Ba tôi, lúc hai cha con gặp nhau mừng mừng, tủi tủi trong tiệm cơm bình dân ở Gò Vấp. Ba gọi một tô canh cải bẹ xanh và dĩa thịt mặn, hai cha con vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Ba nhâm nhi ly rượu trắng kể chuyện nhà cho tôi nghe. Sau cùng Ba nói: “Nhà mình đang lúc nghèo túng, con đi gần nửa năm Ba mới đi thăm! Con ráng chịu thiếu thốn, cầu trời lần này nấu dầu khuynh diệp thành công, Ba trở lên đây bán dầu thăm con.” Khi chia tay Ba trở về quê, Ba móc hết trong túi ra một số tiền rất khiêm tốn, giử lại vừa đủ đi xe, còn lại dúi hết vào túi tôi, tôi đưa lại Ba một số đề phòng đi đường xa có việc cần xài, nhưng Ba không chịu!

     “Dự án” sản xuất dầu khuynh diệp lại bất thành! Sau này theo lời kể của Ba tôi, không biết vì sao nấu mỗi mẻ thay vì được 1, 2 lít dầu như dự định, chỉ được chừng 5, 7 phân khối! Khi ấy tôi không có ở nhà chia sẻ nỗi buồn của Ba Má tôi!

     Còn nhớ, năm 1955 Ba tôi mượn vốn của chú Ba Dẻ bà con bên nội tôi mua ghe chở hàng buôn chuyến các thứ rau quả theo mùa vụ đi bán ở Long Xuyên, Sài Gòn… Chuyến buôn nào cũng lỗ, may lắm là hòa vốn! Cùng đi với Ba có đứa em gái thứ năm của tôi. Có chuyến tôi đi theo giúp Ba chứng kiến những chuyến buôn, khi hàng đầy ghe rời bến Ba tôi rất vui, hy vọng chuyến này có lãi trả dần nợ, rồi sẽ có lúc hết nợ, gia đình có cuộc sống ấm no, vợ con đở vất vã, thiếu thốn! Tấm lòng và trách nhiệm làm chồng, làm cha của Ba tôi suốt cuộc đời lúc nào cũng vậy! Khi kết thúc chuyến buôn, hy vọng tan theo dòng sông Cữu Long, Ba tôi buồn bực lấy rượu giải sầu! Tình cảnh đó lập đi lập lại! Có lúc, khi uống rượu Ba tôi nói trong nghẹn ngào, tức tưởi với anh em tôi: “Ba buồn quá con ơi, muốn tự vận chết cho rồi, nhưng tội nghiệp má con và các con ở lại, Ba chết cũng không yên!” Nghe Ba nói lòng tôi đau đớn, xót xa! Thương Ba cả đời chưa có niềm vui trọng vẹn…!                                                                                                  

     Anh em tôi lần lượt thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, cuộc sống gia đình tôi vẫn khốn khó! Năm 1958, Ba tôi thu xếp gia đình quay về sinh sống ở kinh Tám Ngàn, để lại những món nợ cùng lời dèm pha, xỉ vả của chủ nợ. Sau năm 1975 tôi bàn với Ba xem lại số nợ còn thiếu, anh em tôi cùng góp tiền giao Ba trả hết.

4

     Giải ngũ quân dịch trở về gia đình tôi đang sống ở Đường Cũi Giữa, kinh Tám Ngàn, xã Bình Sơn (huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang ngày nay). Một tháng sau cậu tôi đến truyền đạt quyết định của Huyện uỷ Tịnh Biên, giao nhiệm vụ tôi tiếp tục công tác nội tuyến lần thứ hai trong lực lượng bảo an tỉnh An Giang (sau là địa phương quân). Sau khi làm xong thủ tục nhập ngũ, tôi thụ huấn hai tháng tại Trung tâm huấn luyện bảo an tỉnh (điểm Báo An Giang ngày nay). Tại đây, tôi gặp anh Hai Tể. Qua thái độ của anh, tôi biết anh là người tốt, thường gặp nhau nói chuyện thời cuộc, về trách nhiệm thanh niên đối với Đất nước… Dần dần tôi và anh hiểu nhau là người của cách mạng cày cắm. Để giử nguyên tắc bí mật nhiệm vụ ai nấy làm. Sau năm 1975 tôi nhận ra anh Hai Tể công tác phường Mỹ Bình và cơ quan thanh tra thị xã Long Xuyên đến khi anh nghỉ hưu.

     Mãn khóa huấn luyện, họ đưa tôi về đồn Vàm Cống, trưởng đồn giao làm thơ ký đồn và giử kho súng. Em tôi – Nguyễn Minh Nhị được tổ chức giao nhiệm vụ liên lạc với tôi, cùng cậu Út tôi vài lần đến thăm. Có lần cậu Út đến, hai cậu cháu ngủ qua đêm trước cửa kho súng, tôi báo cho cậu biết số súng trong kho và hệ thống bố phòng của đồn. Tôi đề nghị được làm nội ứng cho bộ đội đánh đồn xin ra ngoài chiến đấu. Cậu Út cho biết Đảng chưa có chủ trương, khuyên tôi kiên nhẫn!

     Một buổi sáng, tôi thơ thẩn đứng trước cửa đồn nhìn khách tấp nập xuống xe qua phà, tôi nhận ra một bà nét mặt quen quen. Thì ra chị Sáu Mỹ Tân, hồi kháng chiến chị công tác chung với tôi ở Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Long Châu Hà. Lẽ ra tôi không nên nhìn chị, nhưng tình đồng chí lâu ngày mới gặp, giục tôi muốn gặp thăm chị. Tôi đi nhanh xuống phà đứng gần chị, thấy tôi mặc áo lính chị quay mặt đi, tôi đi theo chị hỏi nhỏ: “Chị Sáu mạnh khỏe hả?”. Chị buộc quay lại: “Xin lỗi cậu là ai?” – “Tôi là Đáo đây (tên thật của tôi). Chị đừng ngại, tôi vẫn như xưa thôi chị à !”. Chị Sáu Mỹ Tân buộc phải nhìn tôi, nhưng trông chị có vẻ bất an! 

     Cuối năm 1959 Tỉnh đoàn Bảo an tuyển lính các đại đội thành lập một đại đội đưa đi huấn luyện bổ túc tại Trung tâm huấn luyện Thất Sơn, về sau có tên Trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Đại đội trưởng giao tôi làm thơ ký đại đội. Về phép gặp cậu Út tôi đề nghị làm nội ứng cho bộ đội đánh chiếm Trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Cậu Út tôi không chấp nhận, khuyên tôi cố gắng thực hiện nhiệm vụ “chui sâu trèo cao”. Sau khóa huấn luyện họ bổ nhiệm tôi về Phòng chiến tranh tâm lý và Phòng kế hoạch Tỉnh đoàn bảo an An Giang. Sau cùng họ thuyên chuyển tôi về Khu 1 bảo an Nam phần, là cơ quan chỉ huy lực lượng bảo an sáu tỉnh miền Tây, trú đóng gần sân bay Sóc Trăng, sau dời về Cái Răng – Cần Thơ. Tôi về báo cáo xin chỉ thị của tổ chức. Các đồng chí chấp nhận, cho rằng đây là cơ hội tôi có thể “chui sâu, trèo cao”, động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiện vụ. Nơi đây, họ giao nhiệm vụ tôi kẻ vẽ khẩu hiệu trang trí các phòng làm việc và làm thơ ký đánh máy. Trong cơ quan chỉ có tôi là binh nhì còn lại là hạ sĩ quan và sĩ quan, làm việc văn phòng như một công chức. Lợi dụng công việc mình làm tôi đánh cấp một số tài liệu mật chuyển cho tổ chức. Tôi nôn nóng muốn ra ngoài cầm súng chiến đấu, một hôm em Nguyễn Minh Nhị đến thăm, tôi nói: “Em về báo cáo các anh cho anh ra ngoài chiến đấu, ở đây anh không làm được việc gì có ích đâu!”. Một tuần sau không chờ ý kiến tổ chức, nhân ngày chủ nhật nghỉ làm việc, tôi ra bến xe Cần Thơ “đào thoát”. Kết thúc hành trình hơn ba năm hai lần công tác nội tuyến trong quân đội Sài Gòn.                                                          

     Về gia đình tôi vẫn đang sinh sống ở kinh Tám Ngàn là vùng giải phóng, lực lượng kháng chiến địa phương thấy tôi lạ mặt, dáng vẻ dân thành thị nghi ngờ làm dọ thám cho địch định “làm thịt” tôi, may sao các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện biết được can ngăn. Về sau tôi mới biết chuyện nầy, hú hồn! Hơn một tháng, Huyện uỷ Tịnh Biên gọi tôi về văn phòng đang trú đóng núi Dài xã Ba Chúc. Ông Năm Mạo bí thư Huyện uỷ triệu tập cuộc họp kiểm thảo tôi, quyết định thi hành kỷ luật cảnh cáo và kéo dài thời kỳ đảng viên dự bị mà không nói thời gian, về khuyết điểm vi phạm kỷ luật đảng tự ý bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến Đảng giao. Sau đó, Huyện uỷ phân công tôi làm trưởng Tổ quân báo huyện.

     Mùa nước năm 1961, tôi được cử đi dự hội nghị Quân báo Khu 8 ở căn cứ Đồng Tháp Mười, cùng với anh Mười Thành Công, trưởng Tiểu ban Quân báo Tỉnh đội. Hai chúng tôi xuất phát từ núi Dài trên chiếc xuồng nhỏ, theo đường dây giao liên xuống đồng tràm Huệ Đức, căn cứ huyện Châu Thành. Đêm hôm sau, giao liên dẫn ra ém ngủ đêm nhà cơ sở mật phía trên cầu Quay chừng một cây số trên bờ sông Hậu. Mờ sáng, chúng tôi cải trang làm nông dân đi cắt cỏ, ba lô dấu dưới khoan xuồng, để trên mấy bó cỏ ngụy trang. Một cô giao liên công khai bơi xuồng đi trước dẫn đường, đi qua một số đồn dân vệ đến vùng giải phóng huyện Chợ Mới. Ở đó nghỉ mấy ngày, một cô giao liên công khai khác tiếp tục dẫn đường, vượt qua sông Tiền phía trên đồn Phong Mỹ vài trăm thước lúc nữa đêm, chờ trời rạng sáng cô giao liên chỉ hướng chúng tôi tự đi vào cánh đồng nước mênh mông, xa xa nhìn thấy những rặng cây, cô bảo đi vào đó sẽ gặp cán bộ, bộ đội hỏi tìm nơi cần  đến.

     Lần mò đi tìm hơn một ngày, chúng tôi gặp cơ quan Quân báo Khu 8. Hội nghị đã bế mạc, các đồng chí lãnh đạo làm việc riêng với chúng tôi. Hơn một tuần sau chúng tôi sắp sửa quay về An Giang, nhận tin buồn anh rể thứ Ba của tôi – Anh Trần Ngọc Quế, bí danh Ba Nhân hy sinh, cùng với một tiểu đội bộ đội địa phương tỉnh do anh chỉ huy bảo vệ bà Nguyễn Thị Định, trên đường công tác từ An Giang về miền Tây, đến xóm Cốc Đạo Cậy xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú bị địch truy đánh. Trên đường về, chúng tôi đến xóm Cốc Đạo Cậy lúc nữa đêm, được đồng bào dẫn đi xem nơi diển ra trận đánh không ngang sức. Quân ta không tới 10 tay súng, bám trên gò tre nhỏ giữa đồng nước, đương đầu với địch đi trên giang thuyền. Anh Ba Nhân chỉ huy anh em chiến đấu bảo vệ đoàn bà Nguyễn Thị Định rút đi an toàn, diệt một số tên địch. Chúng tôi đến đó sau trận đánh vài ngày, còn lưu lại dấu dết những cành tre bị bắn gãy đổ chưa khô lá, những đám lúa mùa còn nhàu nát và thoang thoảng trong gió mùa thuốc súng. Một bác nông dân chứng kiến cuộc chiến đấu sinh tử của quân ta kể lại diển biến từ đầu đến cuối, luôn nhắc đến người chỉ huy dũng cảm, chỉ huy anh em chiến đấu kiên cường đến người cuối cùng! Tôi nghe mà trong lòng quặn thắc một nỗi đau!                                                   

     Những năm tháng công tác huyện Tịnh Biên tôi có nhiều bạn chiến đấu. Đặc biệt có hai người bạn chí cốt để lại trong tôi niềm thương nhớ mãi không nguôi! Một là anh Chín Tiều, khi tôi làm trưởng tổ quân báo huyện, anh là trưởng Văn phòng Huyện đội. Tôi với anh gần gũi thân tình, cùng chia ngọt sẻ bùi trong cuộc sống đầy khó khăn gian khổ! Về sau anh làm cán bộ Ban An ninh tỉnh phụ trách vùng, có nhiều thành tích được phong Anh hùng Quân đội. Khi tôi về Tỉnh đội công tác được tin anh hy sinh! Thứ hai là anh Năm Hà, được Huyện đội bổ nhiệm làm phó cho tôi. Anh là con em một gia đình cách mạng chí cốt xã Thới Sơn. Suốt thời gian công tác huyện Tịnh Biên, mẹ và chị anh nuôi chứa tôi xem như người thân. Trong công tác anh rất nhanh nhẹn, tháo vát và chân tình với bạn bè, đồng chí. Anh hy sinh vì vướng lựu đạn gài của chính bộ phận cùng ở với anh trong lõm căn cứ xã Thới Sơn. Thật đau lòng!

     Đầu năm 1962, ông Võ Văn Đầy, tức Bảy Thà làm bí thư Huyện ủy thay ông Năm Mạo được điều về tỉnh. Trong một lần trò chuyện với ông Bảy Thà, ông cho biết Ban thường vụ Huyện ủy vừa làm việc về công tác cán bộ, quyết định tôi là “cán bộ sơ cấp Đảng”, đang đề nghị Tỉnh ủy chuẩn y. Tôi nói, tôi chưa được công nhận đảng viên chánh thức. Ông hỏi tại sao vậy? Tôi trình bày mọi chuyện với ông. Sau cùng ông nói: “Vậy từ nay Huyện ủy công nhận đồng chí là đảng viên chánh thức”. Từ đó trong lý lịch tôi ghi kết nạp đảng tháng 12 năm 1957, chánh thức tháng 1 năm 1962, tôi làm đảng viên dự bị 4 năm!

     Năm 1963 Huyện ủy, Huyện đội giao tôi kiêm nhiệm làm trưởng Văn phòng huyện đội, sau đó làm trưởng Văn phòng huyện ủy. Tôi đi kháng chiến 11 tuổi học hành dang dở, nhờ có chút năng khiếu “cạo giấy”, nên cuộc đời làm cách mạng của tôi có nhiều năm làm công tác văn phòng, khởi đầu ở huyện Tịnh Biên.  

5

     Ngày 31 tháng 7 năm 1964, sau khi được gia đình đôi bên và Ban thường vụ Huyện ủy chấp nhận, tôi làm lể thành hôn với cô gái công tác cùng cơ quan với tôi. Vợ chồng tôi chung sống đến ngày “răng long tóc bạc” hôm nay. Cuộc hôn nhân thời chiến của chúng tôi kể ra khá lãng mạn, đong đầy kỷ niệm! Lể tuyên hôn được tổ chức nhân bế mạc hội nghị cán bộ Huyện ủy, do ông Mạnh Hà bí thư chi bộ làm chủ lể. Sau bữa cơm thân mật buổi chiều, mọi người quây quần trong hội trường, có trang trí bàn thờ Tổ quốc, cô dâu chú rể “đứng hầu” hai bên nghe ông chủ lể “thuyết giáo”, sau cùng tôi hứa hẹn… Nghi lể vừa xong chốt lát, bổng nghe tiếng pháo đề-pa từ trận địa pháo Ba chúc, đạn rít qua đầu nổ ầm ầm chung quanh. Mọi người nhanh chóng chạy tản ra. Hầm trú ẩn không đủ, nhường cho người già, phụ nử, trẻ em, tôi và các bạn trẻ nằm phơi trên mặt đất. Địch bắn hàng chục quả pháo, có mấy quả nổ rất gần, mãnh đạn văng sát chổ tôi nằm, tiện đứt cành cây gãy đổ trước mặt, rất may không có quả nào rơi trúng nơi hành lể. Trận bắn pháo không bình thường, Ban An ninh huyện phát hiện tên gián điệp nữ ở xóm Ô Cạn bắt điều tra, thị khai thấy anh em ta mượn nồi niêu, chén bát chuẩn bị lể cưới cho tôi báo với đồn Phổ Đà Ba Chúc: “Việt cộng đang hội họp, ăn uống đông người…” và chỉ điểm chúng bắn pháo. Tên gián điệp đền tội làm tay sai cho địch!

     Vợ tôi khi ấy làm y tá Văn phòng Huyện đội. Sau ngày cưới được điều về Văn phòng Huyện ủy làm nhân viên đánh máy. Khi mang thai về gia đình tôi ở kinh Tám Ngàn sinh một bé trai kháu khỉnh. Ba Má tôi làm lể mừng cháu nội đầy tháng, tôi về thăm lòng tràn ngập niềm vui! Trở về cơ quan mấy hôm, được tin con tôi bệnh chết. Tôi bàng hoàng đau xót! Hinh ảnh đứa con bé bỏng yêu thương cứ lảng vảng trong đầu tôi! Ba đưa vợ tôi về cơ quan tiếp tục công tác. Thương nhớ con, nhất là ban đêm bầu sữa căng tròn, vợ tôi nhớ con khóc rấm rứt cả tháng! Năm 1965, máy bay địch ném bom trúng nhà tôi tan hoang, may mắn cả nhà kịp chạy thoát! Ba Má tôi góp nhặt những gì còn lại xuống chiếc ghe nhỏ, cùng mấy đứa cháu ngoại sống bập bềnh trên dòng kinh Lương An Trà.

     Giửa năm 1968 tôi nhận quyết định điều động về Văn phòng Tỉnh đội làm trợ lý chiến sự - chức năng như chánh văn phòng và được phong cấp đại đội chánh trị bậc phó, tức thiếu uý. Các cơ quan tỉnh khi ấy trú đóng đồi Tức Dụp (núi Tô). Đến cơ quan Tỉnh đội được anh Vũ Khắc Sương Tỉnh đội trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ và hướng dẫn tôi đến chổ ở dành cho tôi. Đó là một hốc đá nhỏ, nằm trong dãy lò ảng tầng tầng lớp lớp của đồi Tức Dụp. Một hai ngày sau tôi được nếm mùi trận bom đầu tiên của địch. Có mấy quả rơi trên đầu, tiếng nổ chát chúa, khói bụi mù mịt len theo kẹt đá vào tận hang sâu nơi cơ quan trú ẩn. Khi ấy địch đánh phá đồi Tức Dụp chưa ác liệt. Hàng ngày vào đầu giờ làm việc buổi sáng, tôi chui khỏi hang hít thở không khí ban mai trong lành, đi nhởn nhơ ngắm cảnh sang Văn phòng Tỉnh ủy họp giao ban. Hôm nọ, đi ngang khu vực Dân y tỉnh, tôi thấy có một bệnh nhân nữ gương mặt khá xinh chừng 18, 19 tuổi, nằm trên bộ vạt tre kê dưới vòm hang đá nhỏ bên vệ đường. Cô mặc chiếc quần đen nhàu nát, trên người chỉ đắp chiếc khăn rằn, sau lưng có mấy vết loét sâu. Cô luôn rên rĩ la hét, cười nói lảm nhảm như người mất trí. Tôi hỏi những người biết chuyện kể: Cô quê Cà Mau, đi thanh niên xung phong vận tải súng đạn từ biên giới Campuchia qua An Giang về miền Tây. Trong một trận địch càn quét núi Tô, cô bị sốt rét nặng đồng đội đem giấu dưới hang đá, không rõ vì sao người ta bỏ rơi cô. Gần mười ngày sau, anh em nhân viên một cơ quan tỉnh phát hiện cô trong tình trạng đói lả, thân thể lở loét, đem về Dân y tỉnh cứu chữa. Tôi hỏi bác sĩ trưởng dân y về khả năng cứu chữa cô gái, ông cho biết trong điều kiện của ta hiện nay khó có thể chữa lành các vết loét…!                                            

6

     Giữa năm 1968 Sư đoàn 1 Anh hùng – Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, được Bộ tư lệnh Miền điều động về đứng chân chiến trường Bảy Núi, xây dựng đầu cầu mở hành lang chuyển Sư đoàn về miền Tây. Việc đưa một đơn vị lớn hàng ngàn quân từ biên giới Campuchia qua kinh Vĩnh Tế về đứng chân trên vùng căn cứ nhỏ hẹp Bảy Núi vô cùng khó khăn. Lúc đầu ta còn giử được yếu tố bí mật bất ngờ đánh thắng một số trận ở Vĩnh Trung, Ba Xoài, Xoài Chết… Nhưng khi địch phát hiện bộ đội chủ lực ta, chúng huy động hàng vạn quân, cùng các loại binh khí kỷ thuật hiện đại vây đánh quyết liệt hai ngọn đồi Ô Tà Sóc và Tức Dụp; nhất là đồi Ô Tà Sóc, nơi đóng quân chủ yếu của Sư đoàn, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất…!

     Cuối năm 1970 tôi là trung úy trợ lý tuyên huấn Ban chánh trị Tỉnh đội, được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền phương Tỉnh đội vừa thành lập do anh Trần Thế Lộc, thường gọi Bảy Phong –  tỉnh đội phó phụ trách, về Bảy Núi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh có mặt như Đại đội 381 đặc công, Đại đội 385 trợ chiến và Tiểu đoàn A.11 (Quân khu 8 biệt phái) hoạt động độc lập hoặc phối hợp với bộ đội chủ lực. Lúc nầy địch đánh phá phong tỏa biên giới trên tuyến kinh Vĩnh Tế rất quyết liệt, chúng tôi hành quân từ căn cứ B3 – Vạt Lài, huyện An Phú tới núi Som (Campuchia) tiếp giáp biên giới huyện Tịnh Biên, mất gần hai tháng chúng tôi mới “dùi” qua được kinh Vĩnh Tế về núi Dài – xã Ba Chúc. Lúc đầu trú đóng Ô Vàng – xã Lê Trì, sau bám trụ đồi Ô Tà Sóc – núi Dài xã Lương Phi.

     Gần cuối năm 1971 tôi nhận lệnh đi học trường Trần Phú Khu 8, hoàn thành nhiệm hơn 9 tháng cùng đồng chí, đồng đội sống, chiến đấu đầy hy sinh gian khổ trên đổi Ô Tà Sóc nóng bỏng! Những năm trước tôi có viết hồi ký nhan đề “Trên đồi Ô Tà Sóc năm xưa” đăng trên Báo An Giang và trang Facebook của tôi về ngọn đồi này.

7

     Tháng 3 năm 1973, tôi vẫn công tác Ban Chánh trị Tỉnh đội được cử đi học khóa bồi dưởng cán bộ chánh trị viên tiểu đoàn Trường Quân Chính Quân khu 8, trú đóng trên đất Campuchia cách biên giới tỉnh Long An rất xa. Cùng đi có các đồng chí Út Lê (Bùi Văn Huấn, sau là thượng tướng phó chủ nhiệm Tổng cục Chánh trị), Tư Hờn (chết bệnh) và Bảy Sửu (hy sinh trong kháng chiến). Tháng 9 năm 1973 tôi được đề bạt cấp tiểu đoàn chánh trị bậc phó, tức thượng úy. Giữa năm 1973 tỉnh An Giang chia tách thành hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà, tôi công tác tỉnh Long Châu Tiền làm phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội.

     Năm 1974, các cơ quan tỉnh trú đóng Kế Sách, ven sông Sở Thượng trên đất Campuchia, cách biên giới đối diện thị trấn Hồng Ngự không xa. Năm ấy là năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh đội tổ chức Đại hội Chiến sĩ thi đua trong khí thế phấn khởi chưa từng có, trước những chiến thắng dồn dập của ta trên khắp chiến trường miền Nam. Địa điểm đại hội tại chòm cây vừng, nơi cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội trú đóng. Chúng tôi cử một số anh em tìm mua khung nhà cũ bằng gổ vuông của dân Campuchia đem về cất hội trường rất khang trang, bàn ghế làm bằng ván, trang trí khẩu hiệu, cờ, hoa rất đẹp, ban đêm chạy máy đèn sáng rực… Đại hội tiến hành cuối tháng 6 năm 1974, vừa xong thì mùa nước đến. Mùa khô năm 1975, tình thế cách mạng biến chuyển rất nhanh, ta vào trận quyết chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau giải phóng, tỉnh Long Châu Tiền lấy thị trấn Tân Châu làm tỉnh lỵ. Các cơ quan Tỉnh đội trú đóng khu vực chi khu quận Tân Châu của quân đội Sài Gòn. 

     Đại hội Chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Long Châu Tiền năm 1975 tổ chức đầu năm 1976 tại rạp hát Tân Châu. Đây là lần đầu đồng bào vùng mới giải phóng chứng kiến ta tổ chức lể hội cấp tỉnh. Chúng tôi cố gắng chuẩn bị mọi mặt chu đáo tiến hành đại hội thật trọng thể, gây ảnh hưởng chánh trị tốt trong đồng bào!

     Tháng 12 năm 1975 tôi được thăng cấp đại úy. Hồi đó, tỉnh Long Châu Tiền sĩ quan cấp đại úy đến cao nhất trung tá đếm trên đầu ngón tay. Lần đầu tiên khoát quân phục, đeo quân hàm kết hợp trông rất đỉnh đạt, khác hẳn anh bộ đội ở rừng ngày nào!

     Sau Đại hội chiến sĩ thi đua, tôi mới có thời gian nghĩ phép mấy hôm về  thăm quê sau bao năm xa cách. Ngồi trên xe jeep đi từ Tân Châu sang phà Châu Giang qua Châu Đốc, vào Nhà Bàn theo con đường lộ đá quen thuộc xuống Cây Mít, lòng tôi lâng lâng một niềm vui khó tả…! Tôi ghé xóm chùa Bà Bảy quê ngoại viếng mồ mả ông bà, thăm bà con bên ngoại và ra xóm Cây Mít thăm bà con bên nội.

     Năm 1976 tỉnh An Giang được tái lập, tôi vẫn là đại úy phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội, sau là Phòng Chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhiều năm gắn bó lực lượng vũ trang tỉnh nhà trong công tác chánh trị quen người, quen việc. Đùng một cái các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội tham khảo tôi chuyển ngành sang Văn phòng Tỉnh ủy. Các đồng chí nói: Các ngành dân – chính – Đảng đang thiếu cán bộ, Văn phòng Tỉnh ủy cần một cán bộ có khả năng nghiên cứu phụ trách Khối quân sự - an ninh, nhất là theo dõi chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng khốc liệt, phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Quảng đời binh nghiệp của tôi kết thức từ đó!

                                                Long Xuyên, ngày 24 tháng 11 năm 2020

                                                          Nhớ miền Trung đau thương

                                                                           N.M.Đ

 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 24-11-20