Dân Luận
4-12-13
"Cận cảnh" nguyên nhân Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sụp đổ
Nhân kỷ niệm 96 năm Cách Mạng Tháng Tám (19/8/1945 – 19/8/2041), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự sụp đổ của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Sự sụp đổ của chính quyền XHCN Việt Nam cuối những năm 10, đầu những năm 20, của thế kỷ XXI là một sự kiện đặc biệt quan trọng của khu vực Đông Nam Á, là một tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác-Lênin. Sự sụp đổ của chính quyền XHCN Việt Nam vào cuối 2021 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á cũng như khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Trong giai đoạn 1945 - 1954, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nằm trong vòng vây của thực dân Pháp. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa non trẻ lâm vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã vượt qua thách thức hiểm nghèo để tiếp tục phát triển, với kết quả là kết thúc chiến tranh năm 1954 bằng trận Điện Biên Phủ và sau đó là Hiệp định Geneve.
Sau hơn bảy mươi lăm năm tồn tại, phát triển chậm chạp, vào cuối những năm 10 của thế kỷ XXI, Cộng hòa XHCN Việt Nam đã vượt qua 4 cuộc chiến (45 -54, 54 – 75, Biên giới Tây Nam, Biên giới phía bắc), từ một nước thiếu đói thành một trong những nước xuất khẩu hang đầu về gạo và cà phê. Từ một nước với năng lực hải quân hạn chế đã có hạm đội tàu ngầm, tàu chiến, trở thành một thế lực trong khu vực Đông Nam Á. Với sức mạnh to lớn về quân sự và kinh tế, Cộng hòa XHCN Việt Nam đủ sức đương đầu với hệ thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc của người anh em Trung Quốc để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới.
Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ khi đã đạt đến đỉnh cao.
Tại sao?
Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách của những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng tám (19/8/1945 – 19/8/2041), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam.
1. Chính quyền XHCN Việt Nam đã có đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của khu vực và thế giới.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, trên thế giới có hơn một chục Đảng Cộng Sản cầm quyền, hình thành một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương, hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại của hệ thống XHCN hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Xét đến cùng, sự hình thành và phát triển của phong trào không liên kết là thành quả của cuộc đấu tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là thành tựu to lớn của các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách khác, chính những người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình phát triển văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đã xây dựng được một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN), trên nhiều lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến nay, sau 20 năm Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ, vẫn có 9% người Việt được hỏi ý kiến cho rằng ở chủ nghĩa xã hội nhiều điều tích cực hơn là tiêu cực.
Thật trớ trêu, chính các Đảng Cộng Sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Việt Nam, lại để mất quyền lãnh đạo, Cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Việt Nam mất quyền lãnh đạo, Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam sụp đổ mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.
Thực chất, Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCH Trung Ương đã tha hóa, đã tự đánh mất mình và làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ. Chính những người lãnh đạo cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSVN đã thừa nhận điều đó. Tất nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực chống cộng quốc tế thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình" cũng là một nguyên nhân làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ, nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân chính, không phải là nguyên nhân chủ yếu.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tha hóa, biến chất như thế nào?
Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn sau đây:
- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ nhạt, khô cứng, độc thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên trung kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại, những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính trị, BCH Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng CSVN với nhân dân Việt Nam. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSVN xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp dưới.
- Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng Cộng sản Việt Nam và các "phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.
Thông thường các biểu hiện trên không tồn tại biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với nhau, tác động với nhau, có lúc cái này làm tiền đề, điều kiện cho cái kia tồn tại và phát triển. Những biểu hiện thoái hoá nói trên, không bổng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình từ chớm nở như một ung nhọt nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh tật này lặng lẽ tích dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức chiến đấu, thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, khả thi. Trong Đảng CSVN đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng viên giàu lên nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó khăn; nhiều đảng viên nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác ngoài cuộc họp, suy nghĩ một đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng dần dần nguội lạnh, nhiều đảng viên trở nên thờ ơ trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến vận mệnh của Đảng CSVN.
Theo Nguyễn Phú Trọng, có thể chia 3,6 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm 4 loại: 1, Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96%); 3. Những kẻ cơ hội, xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền); 4. Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không dám phát biểu).
Trần Xuân Bách, nguyên ủy viên Bộ Chính trị ĐCS Việt Nam, Bí thư trung ương Đảng (1986 - 1990) cho rằng: Tồn tại hai Đảng trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình thường và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Những đảng viên nắm quyền lực ở cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt với hàng chục triệu đảng viên bình thường. Số đảng viên này, về thực chất, không đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách bám giữ quyền lực vì lợi ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSVN, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trông chờ, mong muốn có sự thay đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong xã hội Việt Nam vào cuối những năm 10, đầu những năm 20 của thế kỷ XXI, đêm trước của sự sụp đổ, tan rã (2019 - 2021).
3. Thử bàn về các nguyên nhân
Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông tin, tư liệu để khẳng định. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là một nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị trường thì khó lòng giải thích được những thoái hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Trường Chinh, Lê Duẩn lãnh đạo, vì thời Mao, thời Trường Chinh, thời Lê Duẩn chưa có kinh tế thị trường.
Nghiên cứu kỹ quá trình thoái hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, kể cả những đảng cầm quyền rồi mất quyền và những đảng hiện nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSVN đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSVN (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối sống, chia rẽ mất đoàn kết...). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Việt Nam dưới thời lãnh đạo của Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSVN thiếu thông tin nhiều mặt về một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ những người lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa vào cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống, có thể xem một tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại bền vững, nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu thiếu trao đổi thông tin (theo 2 chiều thuận - nghịch, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ thống đó sẽ bị đổ vỡ để chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong sinh hoạt đảng, tức là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong đảng ra ngoài xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra thoái hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số đảng viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng Cộng sản Việt Nam để chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi, vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Sinh Hùng, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội của Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam? Cớ sao hàng triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không có phản ứng gì khi Vũ Đức Đam tuyên bố giải tán Đảng? Không thể nói cách khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và không có cơ chế giám sát quyền lực hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của Bộ Chính trị là nguồn gốc sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh đạo Đảng CSVN, làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên), nhưng không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng CSVN trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau rất lỏng lẻo, đảng mất hết sức sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng, mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một nẻo, không dám thể hiện chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi tan rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy, trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà Đảng CSVN đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu dân chủ là bà đỡ của thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác nhận điều đó. Nhưng Đảng CSVN phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán bộ.
- Hai là, sự thoái hóa của Đảng CSVN là do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều tuyên thệ về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của những người lao động, nguyện trung thành với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn luyện và trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa hẹn của mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của đảng. Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa đó.
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề thuộc về nguyên nhân và điều kiện làm cho Đảng CSVN thoái hóa, nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ. Ở đây chúng tôi không có điều kiện để trình bày tất cả, chỉ nêu ra những nhân tố quan trọng nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng cầm quyền nói chung, của Đảng CSVN nói riêng.
Năm 2041, nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại tiến bộ nói chung, kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng tám (19/8/1945 – 19/8/2041). Chủ nghĩa xã hội đã tồn tại 76 năm tại nước Việt Nam (1945 - 2021) và Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ đã 20 năm (2021 - 2041). Người Việt Nam nói riêng, nhân loại tiến bộ nói chung, còn phải tiếp tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức thuyết phục về những vấn đề liên quan đến sự sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng ta khái quát ba vấn đề lớn sau:
- Một là, từ Cách mạng tháng tám đến khi sụp đổ của Cộng hòa XHCN Việt Nam (1945 - 2021) có thể phân kỳ như sau: 1. Thế hệ cách mạng đầu tiên do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đưa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vượt qua thử thách "ngàn cân treo sợi tóc" 1945 - 1954 để tồn tại và phát triển; 2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Lê Duẩn lãnh đạo đã đánh đuổi đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước; 3; Thế hệ lãnh đạo thứ ba ở Việt Nam từ Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu là những người đã tham gia chiến tranh chống Mỹ và họ đã đưa Việt Nam từ một nước thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo và cà phê hàng đầu; 4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam, là những người sinh ra trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ và ít nếm trải thử thách của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng CSVN mất quyền lãnh đạo, làm cho Cộng hòa XHCN Việt Nam sụp đổ.
- Hai là, thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Việt Nam với Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Đức Đam là hạt nhân đã nắm trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực của đất nước, nhưng họ không thuận theo lòng dân, không được dân ủng hộ nên đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm được mọi quyền lực và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được lòng dân. Những ai không nắm được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng sản đang cầm quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của Đảng CSVN, từ sự tan rã của Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam để vượt qua chính mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng thịnh của đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh, nhưng không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm, khắc phục khuyết điểm.
Thiếu tướng Lâm Văn Cương (Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ Quốc Phòng)