Việt Nam vận hội, Hà Nội: Nhã Nam – Nxb Hội Nhà Văn, 2021
Nguyễn Thế Anh
Đăng lần đầu trên "Khoa học nhân văn"
(Sciences Humaines – Human Sciences),
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XIX, các sự kháng cự sự đô
hộ của người Pháp bằng khí giới đều đã phải dần dần chấm dứt, sau
khi liên tiếp gặp thất bại.
Một nhà hành chánh người Pháp ở Đà Nẵng, Hauser, đã có thể viết
trong tờ Revue Indochinoise
năm 1901 là: “Quant à la
pacification du pays, elle est parfaite et absolue. Les Annamites
sont doux et ne demandent qu’à travailler en paix, les fauteurs de
désordres on disparu…”[1]
.
Và Phan Bội Châu, trong quyển
Việt Nam vong quốc Sử, phải nhìn nhận một cách cay đắng:
“Thế lực người Việt Nam vẫn
muôn vàn không kịp người Pháp, tranh đấu với người Pháp thực không
khác gì đứa bé ba tuổi dám ra vật lộn với Mạnh Bôn có sức nhổ nổi
sừng trâu, sao mà chẳng thua được. Những người Việt Nam bị thua đó,
có người không chịu khuất phục; có người thì mười phần tức giận,
giận quá phải tự tử; có người thì ra đầu thú xin được khỏi tội”.[2]
Thái độ cam phận này sở dĩ được chấp nhận, là vì giai cấp sĩ phu, đã
đứng ra lãnh đạo phong trào quốc gia trong thời gian trước, cảm thấy
rằng những phẩm giá cao quý nhất của mình đều đã bị sụp đổ cả. Mất
mọi tin tưởng nơi tất cả những gì vẫn hằng làm căn bản cho hành động
của mình, giới sĩ phu gặp một cơn khủng hoảng sâu rộng, và tình
trạng khủng hoảng này có một ảnh hưởng trầm trọng đối với thái độ
chính trị cũng như đối với các sự phán xét giá trị tổng quát của các
phần tử khác nhau của giai cấp sĩ phu. Từ đó phát xuất một trạng
thái hoang mang sẽ gây nhiều chia rẽ trong một giai cấp cho tới khi
ấy rất đồng nhất, nhờ ở những điều kiện đào tạo đặc biệt của nó.
Trước
hết, trong quan niệm Nho giáo truyền thống, chủ nghĩa ái quốc lẫn lộn
với lòng trung quân. Thế nhưng, từ vua Đồng Khánh trở đi, nhà vua ở Huế
chỉ là một bức bình phong che đậy các hành động của vị Khâm sứ Pháp;
quyền hành của nhà vua đã bị tước đoạt dần dần để rồi, với đạo dụ ngày
27 tháng 9 năm 1897, tất cả vận mệnh của Nam triều dưới nhà vua là Cơ
Mật viện, gồm có sáu vị thượng thư (chia thành hai vị quản lãnh và bốn
vị hiệp biện) của Lục Bộ[3];
nhưng, với tư cách là đại diện của chính quyền bảo hộ, vị Khâm sứ Pháp ở
Huế có quyền chủ tọa các phiên họp của Cơ Mật viện cũng như kiểm soát
chặt chẽ Tôn Nhân phủ, và các quyết định của chính phủ Nam triều chỉ có
hiệu lực với sự phê chuẩn của vị đại diện của chính quyền bảo hộ mà
thôi. Paul Doumer đã muốn biện minh cho sự tước đoạt quyền hành của vua
Việt Nam này bằng cách cho thấy là đạo dụ ngày 27 tháng 9 năm 1897 cho
phép nâng cao uy tín của nhà vua[4].
Trái lại, uy tín của vua Thành Thái, mà đạo dụ nói trên đánh dấu giai
đoạn trưởng thành, lại càng suy giảm trước mắt dư luận: Jean Ajalbert,
một trong những tác giả hiếm hoi đã chỉ trích chính sách thuộc địa của
người Pháp ở Việt Nam vào lúc đó, đã chứng kiến sự chế giễu của dân
chúng nhân cuộc viếng thăm Hà Nội của vua Thành Thái vào năm 1902[5].
Đoạn văn sau đây, phát nguyên từ ngòi bút của nhà nho Phan Bội Châu,
chứa đựng những lời lẽ khó có thể được chấp nhận mười lăm, hai mươi năm
về trước, nhưng tiêu biểu cho tất cả một tâm trạng chán chường của giới
sĩ phu trước hư vị của vua nhà Nguyễn:
“Vua
hiện tại nước Việt Nam là vua Thành Thái, người Pháp chỉ lưu vua ở trong
nội điện, cho xưng danh hiệu là hoàng đế. Người Pháp lại đem lính Pháp
canh giữ cửa điện, một ra một vào đều do người Pháp coi sóc, vua đi ra
một bước cũng phải vâng hiệu lệnh của người Pháp. Nhất thiết chánh lệnh
chiếu chỉ trong nước đều trước phải bẩm rõ cho người Pháp thuận cho, mới
được thi hành; hoặc người Pháp tự truyền ra ý chỉ, thì những bọn nô lệ
người Việt phải làm lễ năm lạy ba khấu mà dạ dạ vâng làm, còn vị hoàng
đế kia thì hai tay cung kính chỉ chấm một chấm, chứ không được hé miệng
hỏi một tiếng là việc gì đó”[6].
Trước
tình trạng này, thảm kịch của giới sĩ phu là làm thế nào hòa giải lòng
trung quân với lòng ái quốc. Sự lựa chọn đã làm cho giai cấp sĩ phu phải
phân chia thành nhiều khuynh hướng. Một số người nghĩ rằng, mặc dầu bị
bảo hộ, nhà vua vẫn là nhân vật tượng trưng cho truyền thống và là biểu
hiện của quốc gia; vì thế, cần phải bảo vệ các đại quyền của nhà vua và
nhờ vậy mà nước Việt Nam có thể duy trì những gì là chủ yếu.[7]
Trái lại, đối với những người khác, nhà vua ở Huế đã phản bội dân tộc,
đã ngoan ngoãn vâng lời người Pháp; với một vị vua bù nhìn như thế, chủ
nghĩa trung quân không còn nghĩa lý gì nữa: nếu phong trào của Phan Bội
Châu còn chủ trương việc xây dựng lại một chế độ quân chủ độc lập bằng
cách tôn Kỳ Ngoại hầu Cường Để làm lãnh tụ của phong trào quốc gia, tức
là vẫn muốn duy trì dòng họ nhà Nguyễn, thì có một số người đã muốn đoạn
tuyệt hẳn với quá khứ để chỉ nhắm vào mục đích khôi phục nền độc lập
quốc gia[8].
Đây là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các trào lưu tư tưởng
mới, và sẵn sàng đặt lại thành vấn đề tất cả tổ chức chính trị truyền
thống, vì rõ ràng là tổ chức này không còn hơi sức để đối phó với tình
thế mới.
Chính
vào lúc mà các tín điều thiêng liêng của giai cấp sĩ phu bị lung lạy,
vào lúc mà giá trị tinh thần của Nho giáo sụp đổ, thì ảnh hưởng của sách
báo Trung Quốc bắt đầu thấm vào tư tưởng nhà nho: một số “tân thư” được
lén lút đưa vào Việt Nam và khiến nhà nho làm quen[9]
với hai quan niệm mới, hoàn toàn xa
lạ với Nho giáo, quan niệm khoa học và quan niệm dân chủ. Đầu óc của các
nhà nho choáng váng không ít khi ý thức được rằng có thể thay thế chế độ
quân chủ bằng một chế độ khác trong đó có sự tham dự của quần chúng.
Hăng say với những quan niệm mới này, một số sĩ phu tiến bộ hiểu rằng
cần phải từ bỏ cái lối sống trừu tượng, nội tâm của phái nhà nho, mà dấn
thân vào hành động bằng cách kêu gọi người Việt Nam phải xây dựng nền
“tân học” và đoàn kết trong sự tranh đấu theo khẩu hiệu tự do.
Song,
nếu ý thức được là cần phải tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện để mà
cứu quốc, các sĩ phu này lại không đồng lòng về phương thức và đường lối
hoạt động: phong trào Đông độ của Phan Bội Châu chủ trương những biện
pháp bạo động, nhấn mạnh lên sự giải phóng quốc gia bằng mọi cách, kể cả
cách dựa vào sức mạnh quân sự của Nhật Bản
vừa mới đại thắng nước Nga; trái
lại, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, hay phong trào Duy Tân của Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, vv…, thì lại chủ trương những
cải cách ôn hòa, kêu gọi mọi người bỏ lối học khoa cử, đoạn tuyệt với
các hủ tục (mà cử chỉ tượng trưng là cắt cái búi tó), theo đòi tân học
và mở mang công, thương theo con đường tư bản chủ nghĩa[10].
Nhưng đa số đều đã thực hiện một sự tự phán về chính giai cấp của họ:
Phan Chu Trinh chẳng hạn, đã quy lỗi các tệ đoan trong xã hội thời bấy
giờ cho giới quan lại được đào tạo theo lối học cử tử ngày xưa; trong
bức thư ngỏ gửi quan Toàn quyền Đông Dương năm 1906, ông đã đề cập đến
sự hư hỏng về nền phong hóa của nước Việt Nam dưới sự thống trị của các
quan lại thuộc địa và Nam triều, và nêu ra ba nguyên nhân chính đã đưa
đến tình trạng khốn khổ của nhân dân: 1.
“chính phủ bảo hộ dung
túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ cô tức”. 2.
“chính
phủ khinh rẻ sĩ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách”. 3.
“quan
lại Việt Nam nhân cái sự xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân”
và “trừ việc truyền lệnh thu
thuế, không còn biết việc gì nữa”.[11]
Từ năm
1906 trở đi, cuộc vận động yêu nước được thực hiện dưới hình thức những
sự hô hào mở hội buôn, hội học, hội cày, v.v… Các nhà nho đã không chỉ
thỏa mãn với việc cổ vũ phong trào hiệp thương mà thôi, mà cũng đã đích
thân đứng ra điều khiển những cửa hiệu, vất bỏ những thành kiến cũ đối
với những hoạt động công, thương nhưng
nhiều khi cũng không đếm xỉa luôn đến những khía cạnh vật chất như là
lời lỗ, năng suất.
Vào
cuối tháng 7 năm 1907, lấy cớ là bệnh tình của vua Thành Thái trở nên
trầm trọng, Khâm sứ Pháp Levecque đem nhà vua giam tại điện Cần Chánh;
ngày 3 tháng 9 năm 1907, một đạo dụ công bố là nhà vua thoái vị để
nhường ngôi cho Hoàng tử Vĩnh San, được tôn làm vua với niên hiệu Duy
Tân. Lợi dụng trạng thái bàng hoàng và sự bất mãn mà việc phế truất vua
Thành Thái này gây nên trong dư luận, và có lẽ cũng nghĩ rằng sự tuyên
truyền của họ trong những năm 1906-1907 đã đủ ăn sâu vào trong quần
chúng, các lãnh tụ của phong trào Duy tân phát động vào đầu năm 1908 một
phong trào gọi là phong trào cự sưu tại các tỉnh miền Trung. Phương thức
hoạt động là những buổi diễn thuyết tại các xóm làng, trong đó gánh nặng
sưu thuế và các sự nhũng lạm của giới quan lại được đưa ra chỉ trích,
với mục đích là để tạo nên lòng phẫn nộ trong dân chúng, sẽ đưa đến
những sự phản đối tập thể, những cuộc biểu tình tụ họp những đám đông
nhưng sẽ giữ tính chất ôn hòa[12].
Thật vậy, sự phản kháng việc trưng thu thuế má có một nội dung cụ thể,
có thể kích thích tâm lý quần chúng một cách hữu hiệu và lôi cuốn một sự
hưởng ứng rộng rãi của giới nông dân, vẫn còn là đại đa số. Nhưng, lựa
chọn phương thức hoạt động này, các nhà nho đã phải nhìn nhận sức mạnh
của quần chúng, đã phải chấp nhận là một mình họ không đủ sức để thực
hiện cách mạng.
Cuộc
vận động “xin xâu” bắt đầu từ Quảng Nam đã lan ra đến các tỉnh miền
Trung khác rất mau và rất rộng, chứng tỏ là ảnh hưởng tinh thần của giai
cấp sĩ phu trong các từng lớp nhân dân vẫn còn sâu đậm. Ngay từ đầu,
phong trào đã làm cho người Pháp lo ngại; Jean Ajalbert coi cuộc dân
biến này như là “l’émeute le plus savamment organisée, comme une
répétition, une manoeuvre d’essai où l’Annam récapitulait ses énergies,
recensait ses forces de révolte”.[13]
Thế
nhưng, phong trào kháng thuế miền Trung cũng cho thấy những yếu kém của
các nhà nho: về mặt tổ chức, đã thiếu một sự phối hợp chặt chẽ, cho nên
phong trào đã không được phát động cùng một lúc khắp mọi nơi, và nhờ vậy
chính quyền có thể thực hiện việc đàn áp một cách dễ dàng; về mặt lãnh
đạo, tuy chúng ta không thể chỉ trích khí phách của các nhà nho[14],
chúng ta phải công nhận là họ đã quá dè dặt, đến mức để cho các người
thường dân cướp lấy quyền hành động khi các cuộc bạo động xảy ra. Các
bản án được phán quyết, nhất là của tỉnh Bình Định, cho thấy rõ điều
này:
-
“Nguyễn Khiêm…, Châu Văn Long và Phạm Doãn, hoặc cùng người ngoài giao
thông phiến dụ, hoặc chống đánh tập binh, hoặc tranh cướp súng ống…”[15]
-
“Hoàng Văn Đít, Nguyễn Bích và Bùi Tráng Liêm, hoặc là sĩ nhân, hoặc là
tráng đinh, lại dám rủ nhau cắt tóc, vì tên lý trưởng thôn Mỹ Trung bị
chết, kết nghĩa đồng bào mà chịu tang, giữa đường gặp lính công sai,
chặn cướp công văn…”[16]
-
“Trương Bá (22 tuổi, quán thôn Đại Chí, phủ An Nhân) là một tên bồi, cắt
tóc huyên náo, đã bảo tản về, còn dám theo đảng đồng bào tái họp, khi ấy
trông thấy phái nhân (Phạm Mân) liền hô nã ngay, hiệp cùng đảng ấy hạ
thủ nịch sát, đem thây chôn bằng toan làm cho mất tích…”[17]
v.v…
Thành
thử, chính quyền đã chỉ cần phái một số ít quân lính đến phòng ngự các
thị trấn chính yếu là đủ để tái thiết trật tự: ngoài số lính cơ không
đông đảo cho lắm, trung đội 1 và 2 của đại đội 1, tiểu đoàn 9 thuộc địa
được cử đến trấn giữ Quy Nhơn và Bình Định, trung đội 1 của tiểu đoàn 1
Bắc kỳ đến đóng ở Quảng Ngãi và Bồng Sơn, trung đội 2 và 4 của tiểu đoàn
4 Bắc kỳ được phái đến Sông Cầu, Hà Tĩnh và Vinh[18].
Tại
Bắc kỳ, sau khi sự kêu gọi phiến động của Duy Tân hội của Phan Bội Châu
được sự hưởng ứng của nhiều thành phần xã hội khác nhau, vào cuối tháng
6 năm 1908 được tổ chức một âm mưu đánh thuốc độc nhằm giết quân lính
Pháp tại Hà Nội. Nhưng cũng vì không được chuẩn bị kỹ lưỡng, cũng vì
thiếu phối hợp, âm mưu này bị phát giác.
Chính
phủ bảo hộ đã muốn lợi dụng những biến cố nói trên để bắt đầu sự đàn áp
các phong trào có vẻ muốn đặt lại thành vấn đề quyền thế của người Pháp
tại Việt Nam. Bị chi phối bởi các vị Khâm sứ và Trú sứ Pháp, chính phủ
Nam triều và các quan địa phương đã chỉ có thể gộp tất cả các sự vận
động hiệp thương, các sự cổ súy tân học, các cuộc biểu tình cự sưu làm
một, để quy vào tội “quan thông
vi bội” và “mưu bạn” mà
xử án giam cầm, tử hình hay lưu đày ra Côn Đảo các vị lãnh tụ.
Sau
các cuộc đàn áp năm Thân (1908), năm Dậu (1909) này, giai cấp sĩ phu yêu
nước bị lược tỉa nhiều. Những chí sĩ trốn thoát được phải lánh ra ngoài
nước để tham gia hoạt động của Việt Nam Quang Phục hội, sẽ được Phan Bội
Châu thành lập ở Quảng Châu năm 1912. Nhưng Việt Nam Quang Phục hội,
không có chân đứng trong nước, và liên tiếp thất bại trong những cố gắng
mưu toan khởi nghĩa tại Việt Nam. Sự thật, từ đây chấm dứt vai trò lãnh
đạo của giai cấp sĩ phu cũ, mặc dầu các nhà nho này đã nhận thấy sự phá
sản của các tổ chức và quan niệm truyền thống, đã hiểu rằng phải thay
thế Nho giáo bằng một ý thức hệ tiến bộ. Và cơn khủng hoảng mà họ trải
qua cũng đã phát xuất một phần nào từ ý thức là chính giai cấp của họ đã
lỗi thời.
N.T.A
[1]
Nền hòa bình của xứ này đã hoàn hảo và
tuyệt đối. Dân An Nam là những người hiền hòa và chỉ yêu cầu
được làm việc trong yên ổn, những kẻ xúi giục gây rối đã bặt tăm
[Bản dịch của BT].
[2]
Bản dịch của Sa Minh Tạ Thúc Khải (1959-1960),
Niên san Đại học Văn khoa
Sài Gòn, tr.17.
[3]
Vì thế mà Paul Doumer đã có thể viết trong quyển hồi ký về thời
kỳ ông làm Toàn quyền Đông Dương là: “Le
Comat, ou Conseil
secret, était transformé en Conseil des Ministres” [Cơ Mật viện,
đã được chuyển đổi thành Hội đồng Thượng thư- Bản dịch của BT] (L’Indochine
francaise, Souvenirs, Paris, 1905, tr.296). Nhưng điều này
không có nghĩa là Cơ Mật
viện bị bãi bỏ, và thay thế bởi một hội đồng nội các như một
vài sử gia đã vội kết luận.
[4]
“L’ordonnance du 27 september 1897 laisse subsister entière aux
yeux du peuple annamite l’autorité royale. Toutes les réformes
faites l’ont été au nom du Roi, par lui…” [Đạo dụ ngày
27/09/1897 vẫn giữ nguyên trong mắt dân An Nam quyền lực hoàng
gia. Hết thảy cách tân được thực thi dưới danh nghĩa Hoàng đế,
do Hoàng đế quyết định…- Bản dịch của BT], trong
Situation de l’Indochine
(1897-1901), Rapport par M.Paul Doumer, Gouverneur général,
Hanoi, 1902, tr.426.
[5]
“Nous étions tout fiers d’exhiber l’invisible aux populations
qui ricanaient. Nous triomphions de cette désaffection
populaire. Ainsi nous étions maîtres absolus, la royauté n’était
qu’une fiction, qu’il ne tenait qu’à nous d’abolir…” [Chúng ta
hoàn toàn tự hào về việc đã trưng ra được cái điều vô hình cho
dân chúng cười mai mỉa. Chúng ta được hoan hỉ về sự thất vọng
này của quần chúng. Như thế chúng ta hẳn là bậc thầy, và vương
quyền chỉ là một sự hư cấu, là cái chỉ được nắm giữ bởi sự bãi
bỏ của chúng ta… - Bản dịch của BT] (J.AJALBERT,
Les destinées de
l,Indochine. Voyages-Histoire-Colonisation, Paris, 1909,
tr.117).
[6]
PHAN BỘI CHÂU, Việt-Nam
vong quốc sử, (1905), bản dịch của Sa-Minh TẠ THÚC KHẢI,
bđd, tr.16.
[7]
Tiêu biểu cho lập trường này là Nguyễn Trọng Hiệp, đệ nhị Phụ
chánh Đại thần khi vua Thành Thái còn nhỏ tuổi. Paul Doumer đã
mô tả ông như sau: “On pouvait le compter parmi ceux qui, au
début, défendirent de toutess leurs forces leur pays contre
notre prise de possession, qui résistèrent à notre mainmise sur
le gouvernement du royaume, puis tentèrent de sauvegarder le
plus possible des prérogatives royales. Contrairement à ce que
beaucoup pensaient, il avait accepté loyalement un état de
choses contre lequel il ne pouvait plus rien. Il tenait
dignement le rôle difficile de chef d’un gouvernement protégé,
savait faire des objections aux mesures que dictait le vainqueur
si elles lui paraissaient dangereuses ou mauvaises, se faisait,
l’avocat des intérêts du peuple annamite chaque fois qu’il le
jugeait nécessaire”. [Ban đầu họ liệt ông ta trong số những
người bảo vệ đất nước họ bằng tất cả sức mạnh của họ để chống
lại sự chiếm hữu của chúng ta, những người đã thành công trong
việc áp đặt sự chiếm hữu của mình lên chính quyền của vương quốc
này, và mưu việc che chở trong khả năng có thất nhất
các đặc quyền hoàng tộc.
Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, ông ấy đã trung thực
chấp nhận tình cảnh bất khả kháng của bản thân. Ông đã gắng
gượng duy trì đầy xứng đáng cái vai trò khó khăn của người đứng
đầu một chính phủ bị bảo hộ, ông biết cách đưa là những ý kiến
bắt bẻ trước các biện pháp mà người chiến thắng đã áp đặt nếu
những biện pháp ấy có vẻ gây nguy hiểm hoặc tác hại đối với ông
ấy; ông thực hiện nghĩa vụ người bênh vực cho những quyền lợi
của dân An Nam mỗi khi ông cho là cần phải làm vậy.- Bản dịch
của BT] (L’Indochine
francaise, Souvenirs, sđd, tr.156).
[8]
Năm 1907, một viên trợ giáo trường Quốc học ở Huế, Hoàng Thông,
đã không ngần ngại viết trong một quyển sách nhan đề
Tự trị thượng sách
câu: “nước dầu bất hạnh mà mất, không chỉ mất nước của một họ
riêng mà thôi, cũng nước mất quyền diệt chủng”. (Châu
bản triều Duy-Tân, tập XV, 96-97; xin xem trong
Phong trào kháng thuế
miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Nguyễn của cùng
người viết, Saigon, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1973,
tr.117.
[9]
Chỉnh sửa của người BT (nguyên văn: “..làm
quen nhà nho với hai quan niệm mới”).
[10]
Các quyển sách được phổ biến để vận động cuộc duy tân thường có
nhan đề là “Hiệp cổ”,
“Công quyền”, “Địa
lý đồ cuộc”, v.v… (Châu
bản triều Duy-Tân, tập VII, 160-161); cũng phải kể những
sách do các đồng chí của Phan Bội Châu đưa về Việt Nam, như “Phổ
cáo lục tỉnh văn”, “Việt
Nam quốc sử khảo”, “Tân
Việt Nam”, “Viễn hải
qui hồng kỷ niệm lục”, “Lô
Thoa hồn”, v.v… (Châu
bản triều Duy-Tân, tập XXX, tờ 95).
[11]
Khả năng của giới quan lại Nam triều cũng đã bị phê bình bởi
J.Ajalbert: “Par l’intrigue, par les services rendus aux
administrateurs, nombreux déjà sont ceux qui ont gravi les
degrés du mandarinat par des nominations honteuses. Des
résidents commettent la faute fréquente de décompenser le zèle
de leur entourage par des brevets de mandarinat. Non seulement
des interprètes et des secrétaires, mais des domestiques, des
cuisiniers doivent leur intronisation et de rapides avancements
à la complaisance de leurs maitres. Les prétoires et let
préfectures sont envahis de ce personnel méprisé dont
l’administré connait les targes, et doit supporter l’insolence
de parvenus féroces, et les concussions inévitables.
Ainsi faut-il distinguer entre mandarins et mandarins.
Quand, pour les besoins de la cause, on montre l’Annamite
soulevé contre ses
mandarins, et non contre les Francais, c’est une confusion que
l’on essaie; l’Annam se révolte contre
nos mandarins, contre
les mandarins accrédités par nous, et discréditant
l’administration ou le défaut d’administration francaise.
Mandarins de proie, administrateurs de superbe et d’ignorance,
la misère et l’exécration populaires mettent tous les
exploiteurs dans le même sac, qu’ils pousseraient volontiers à
la mer…” [Bằng những mánh khóe, bởi những dịch vụ được thực thi
bởi các nhà hành
chính mà phần nhiều trong số họ đã leo tới cấp bậc quan chức nhờ
vào sự bổ nhiệm đáng hổ thẹn. Những công dân phạm lỗi thường
xuyên được bù lại bằng sự sốt sắng từ những người thân cận của
họ thông qua những mảnh bằng quan chức. Không chỉ những người
phiên dịch và thư ký, mà cả gia nhân, đầu bếp cũng phải được cơ
cấu và thăng tiến nhanh chóng với sự hài lòng từ những ông chủ
của họ. Các phòng xử án và tòa thị chính nhan nhản những kẻ đáng
khinh như vậy, ở đó kẻ bị trị biết thế nào là sự che chắn và
phải chịu đựng sự ngạo mạn từ những kẻ hãnh tiến hung bạo cũng
như nạn ăn hối lộ không tránh khỏi.
Vậy là cần phải có sự phân biệt giữa quan chức với quan chức.
Khi nào cần những điều tất yếu cho một lý do, người ta chi ra
dân An Nam khởi loạn chống lại quan chức của họ chứ không chống
lại người Pháp, đây là một sự lẫn lộn mà người ta đã thử. Xứ An
Nam nổi loạn chống lại quan chức của chúng ta, chống lại những
quan chức được chúng ta ủy nhiệm và làm mất uy tín của nền hành
chính hoặc sự thiếu khuyết của nền hành chính Pháp.
Các quan chức thì ăn như ăn cướp, các nhà hành chính thì kiêu
ngạo và dốt nát, sự khốn cùng và chán ghét đại chúng trút tất cả
kẻ bóc lột vào cùng một giỏ mà họ sẽ sẵn sàng đẩy ra biển…- Bản
dịch của BT] (sđd,
tr.241).
[12]
Tài liệu chính phủ tóm lược phong trào kháng thuế ấy như sau:
“… bọn người hiếu sự ở Nam Nghĩa ngầm mưu xui giục làm loạn,
trước khi dụ dân cắt tóc cải trang, kế thì đặt trường diễn
thuyết, sau hết thì mê hoặc nhân dân bằng việc kêu xin giảm
thuế, cùng nhau tụ tập, xướng làm dân quyền, dần dần đến hống
đường náo thị, mà tỉnh, phủ, huyện, quan sở tại không ngăn chặn
được…” (Châu bản
triều Duy-Tân, tập VII, tờ 107).
[13]
Sđd, tr.121. [cuộc nổi loạn được tổ chức khéo léo nhất, như một
sự lặp lại, một hoạt động thử nghiệm mà ở đó xứ An Nam tổng hợp
hết thảy năng lượng của mình, kiểm kê sức mạnh bản thân cho
những cuộc khởi nghĩa.- Bản dịch của BT].
[14]
Nhưng có thể nói là họ đã làm cách mạng một cách lãng mạn; ví
dụ, Nguyễn Hàng Chi, một nhà nho hay chữ ở Hà Tĩnh, nhưng không
chịu đi thi: ông đã là người xung phong trước nhất trong vùng
cắt búi tó, để tóc ngắn và nhân dịp này đã ứng khẩu đọc mấy câu
“Hàng Chi ơi hỡi Hàng Chi, Cởi trần hồ dễ như mi trọc đầu. Rồi
ra kẻ Á người Âu…”
[15]
Châu bản
triều Duy-Tân, tập VII, tờ 110.
[16]
Châu bản
triều Duy-Tân, tập VII, tờ 132.
[17]
Châu bản
triều Duy-Tân, tập XVII, tờ 75.
[18]
Histoire militaire de l’Indochine francaise de débuts à nos
jours, établie par des officiers de l’Etat-Major du Général de
Division Aubert…
Hà Nội-Hải Phòng, 1931, tr.314. |