Nguyễn Thế Anh,
Việt Nam vận hội, Hà
Nội: Nhã Nam – Nxb Hội Nhà Văn, 2021 Sức đề kháng của Việt Nam
trước
sự bành trướng của Trung Quốc[1]
Nguyễn Thế
Ngày 8 tháng 12 năm 1997, ông Lý Thụy Hoàn, Ủy
viên thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là chủ
tịch của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, đưa ra
tuyên bố trong chuyến thăm Việt Nam: “Trung Quốc và Việt Nam núi liền
núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có tình hữu hảo truyền thống lâu
đời. Suốt sự nghiệp lâu dài đấu tranh cách mạng, nhân dân Trung Quốc và
Việt Nam đã giúp đỡ và ủng hộ lẫn nhau, chia ngọt sẻ bùi, kề vai chiến
đấu, tôi rèn nên tình đồng chí cách mạng sâu sắc. Trong những năm qua,
Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong quan hệ
láng giềng thân thiện, hợp tác hữu hảo. Trung Quốc và Việt Nam cùng chia
sẻ mục đích và trách nhiệm cũng như những khó khăn, thử thách chung…”.
Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương đáp lời: “Việt Nam hết sức
coi trọng mối quan hệ thân thiện truyền thống với Trung Quốc, và sẽ cùng
Trung Quốc hết sức thúc đẩy sự hợp tác toàn diện và thân thiện này,
hướng tới thế kỷ XXI”.[2]
Sự phô trương về mối quan hệ hữu hảo này tuy nhiên, đã bỏ qua những bất
đồng nghiêm trọng chưa được giải quyết từ những khác biệt lâu dài giữa
Trung Quốc và Việt Nam về đường biên trên đất liền cũng như trên biển.
Cụ thể, bằng việc tuyên bố là gần như mọi đảo trên biển Nam Trung Hoa
thuộc về Trung Quốc kể từ thời Hán (năm 206 trước Công lịch đến năm 220
sau Công lịch), Bắc Kinh đã đơn phương tiến hành hàng loạt những
hoạt động nhằm củng cố chủ quyền của họ lên hai quần đảo đang
tranh cãi là quần đảo Hoàng Sa (trong Hán ngữ là Xisha và Anh ngữ là
Paracels) nằm trải dài 300 hải lý về phía Bắc Hồng Kông và 145 hải lý
phía đông cảng Đà Nẵng, Việt Nam; và quần đảo Trường Sa (Nansha
trong Hán ngữ và Spratleys trong Anh ngữ), là tập hợp gồm 200 đảo nhỏ,
bãi đá ngầm và cát ngầm nằm rải rác 215 hải lý về phía Nam của quần đảo
Hoàng Sa, án ngữ hai bên những tuyến hải thương quan trọng; và
hơn nữa, được tin rằng có trữ lượng dầu mỏ dồi dào. Bắc Kinh nhấn mạnh
một cách đặc biệt rằng, quần đảo Hoàng Sa là một phần của tỉnh đảo Hải
Nam, đồng thời tìm cách thiết lập chủ quyền lịch sử của họ lên quần đảo
này bằng cách đưa ra những phế tích khảo cổ mà họ nói rằng minh chứng
cho sự hiện diện của Trung Hoa từ xa xưa. Đồng thời họ cũng trưng ra
những mảnh gốm Trung Hoa cổ và diễn giải rằng chúng được tìm thấy trên
những hòn đảo này. “Lập trường của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa
là cực kỳ rõ ràng: quần đảo này là một phần của lãnh thổ Trung Quốc từ
thời cổ xưa”. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc gần đây nói
trên một bản tin vắn, nhắc lại vị thế không nhượng bộ của Bắc Kinh (đối
với chủ quyền của quần đảo).
Nhằm đối phó với những đòi hỏi này từ phía Trung Quốc, Hà Nội đáp trả
rằng lập trường của Việt Nam cũng dựa trên các chứng cứ lịch sử đã tái
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Theo quan điểm này, ngay từ đầu thế kỷ XVII, các đội hải
thương Việt Nam đã được thành lập trên hai quần đảo2.
Do đó, mọi động thái phi pháp của tàu thuyền ngoại quốc có thể bị coi là
hành vi vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, như hiến pháp Việt Nam
năm 1992 đã định nghĩa rằng: “Lãnh thổ của Việt Nam bao gồm đất liền,
các hải đảo, vùng biển và vùng trời là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm”.
Trên thực tế, những vấn đề liên quan đến Biển Đông là trở ngại chính để
giải quyết ổn thỏa tranh chấp lâu đời này, cũng như để có thể ký kết
thỏa thuận về đường biên giới trên đất liền và phác thảo ranh giới trên
biển ở Vịnh Bắc bộ. Đi đôi với việc thi thoảng có các cuộc đụng độ và
đối đầu căng thẳng, Trung Quốc và Việt Nam vẫn thường xuyên giữ các cuộc
đối thoại cấp bộ từ năm 1993 để bàn về vấn đề chủ quyền. Nhưng việc thực
hiện đầy đủ một thỏa thuận chung về vấn đề biên giới vẫn thường bị lờ đi
do những khó khăn trong việc giải quyết các yêu cầu
chồng chéo của cả hai phía. Tình thế hiện tại, trên thực tế, dao
động giữa hai thái cực: một bên là xung đột căng thẳng; và phía kia là
sự khẳng định tình hữu hảo thủy chung. Nó vốn là cái gì đó gợi nhớ lại
những kiểu mẫu đặc trưng xưa trong quan hệ Việt – Trung ở sự phức tạp
trong quan hệ ngoại giao của nước nhỏ hơn, luôn phải đề phòng tham vọng
bành trướng của người hàng xóm hùng mạnh cùng các quan hệ trong khu vực
của cường quốc này.
Trong thế kỷ thứ hai trước Công lịch, sự bành trướng chính thức của đế
chế Trung Hoa về phía Đông Bắc bán đảo Đông Dương lần đầu tiên đẩy quan
hệ Việt - Trung vào một rắc rối chính trị nghiêm trọng cho những người
sống trong khu vực và sau này là cho thế giới. Sự xâm lược của Trung
Quốc về vùng viễn Nam khiến văn hóa Việt Nam phải điều chỉnh trước sự
hiện diện của thế lực phương Bắc. Trong khoảng một ngàn năm, từ triều
đại Hán Vũ Đế cho tới thời kỳ Ngũ Đại rối ren, miền Bắc Việt Nam là một
bộ phận trong đế chế Trung Hoa3,
ngoại trừ một vài giai đoạn ngắn khi khu vực cứng đầu này, lợi dụng sự
suy yếu nhanh chóng của Trung Quốc, đã nổi dậy chống lại sự thống trị
của ông chủ ở phương Bắc. Quan hệ chính trị này phai nhạt dần thấy rõ ở
thế kỷ thứ X. Với Trung Quốc truyền thống, như một thông lệ, các nước
ngoại vi và biên giới thường tranh thủ tuyên bố độc lập mỗi khi chính
quyền trung ương suy yếu và mục ruỗng. Là một khu vực ngoại vi của Trung
Quốc, châu thổ sông Hồng không chỉ nỗ lực để giảm thiểu việc bị đồng
hóa, mà còn có thể tận dụng cơ hội nhà Đường mục nát trong thế kỷ thứ X,
truy đuổi quân Tàu trên chính đất của họ. Giai đoạn kéo dài suốt thế kỷ
X và XI hết sức quan trọng khi nó đánh dấu sự dừng bước của làn sóng nam
tiến của người Trung Quốc. Từ đây, quốc gia vốn tự coi mình là trung tâm
này phải củng cố biên giới phía Bắc nơi kề cận châu thổ sông Hồng, vì,
sau khi đẩy lùi quân xâm lược Trung Quốc, lực lượng khởi nghĩa ở Việt
Nam đã thiết lập nên nhà nước độc lập của riêng mình. Khu vực trung tâm
vững mạnh được thiết lập ở miền Bắc Việt Nam sau năm 939 tiếp tục là một
vương quốc độc lập và tập quyền cho tới năm 1883. Hết lần này qua lần
khác, trong các năm 981, 1075-1077, những năm 1250 và 1280, 1405-1427,
và năm 1788, Trung Quốc đã nỗ lực tái sáp nhập phần thuộc địa xưa này
vào vương quốc của họ. Nhưng các cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt
Nam rốt cuộc đều thất bại, mặc dù một chính quyền Trung Quốc đã tái xuất
hiện trong một giai đoạn ngắn những năm đầu của triều Minh (1407-1427).
Hệ thống chư hầu
Suốt thời độc lập kéo dài từ thế kỷ thứ X tới thế kỷ XIX, Việt Nam giữ
được thế tự chủ tích cực. Đồng thời, với Trung Quốc, dẫu không phải
không có lúc bị gián đoạn, Việt Nam duy trì một mối bang giao mà Trung
Quốc cảm thấy vẫn có thể tự phụ về bá quyền bao trùm Việt Nam của họ.
Thực vậy, khi Việt Nam chuyển mình từ một kẻ phụ thuộc vào nhà Đại Đường
trở thành một vương quốc độc lập, quan niệm vương quyền và tính chính
danh mà nhà Đường và các triều đại Trung Quốc trước kia tạo dựng và dần
áp dụng cho các quan hệ chư hầu, đã chi phối quan hệ Việt - Trung. Hệ
thống chư hầu được phát triển từ một học thuyết về một thể chế Trung Hoa
toàn cầu, theo đó mỗi nước chư hầu có thể được độc lập cả về đối nội và
đối ngoại, nhưng vẫn giữ liên kết phụ thuộc truyền thống với thiên
triều. Kiểu quan hệ chư hầu triều cống được thay thế cho chế độ trực trị
ở trước đó vốn khắt khe hơn.4
Để kiểm soát sự xâm nhập của những đối tượng phi Hoa vào đế chế, người
Trung Quốc qua từng thời kỳ nỗ lực để chinh phục các nước láng giềng phi
Trung và trực tiếp cai trị họ. Đó từng là chính sách mà Trung Quốc thực
thi ở Việt Nam trong suốt mười thế kỷ sau cuộc chinh phục từ Hán Vũ Đế
chiếm phần miền Bắc của bán đảo Đông Dương. Tuy nhiên những khó khăn về
địa hình, sự chậm trễ trong liên lạc, các cuộc phản kháng nổ ra khắp
nơi, trong khi quan lại Trung Hoa kém hiểu biết phong tục, ngôn ngữ địa
phương là những nguyên nhân trực tiếp khiến hệ thống cai trị bị tê liệt.
Chính vì thế, hệ thống chư hầu được sử dụng để cải thiện tình hình. Từ
thế kỷ thứ X, hay chí ít từ triều Lý (1009-1225), quan niệm của Trung
Quốc về vương quyền và tính chính danh đã định hình quan hệ bang giao
Việt – Trung.
5
Triều Lý coi quan hệ Việt – Trung như một vấn đề căn cốt đòi hỏi được
thường xuyên quan tâm. Năm 1164, họ điều chỉnh thành công một điều khoản
quan trọng trong quan hệ Việt – Trung theo hướng có lợi cho mình. Cho
đến năm 1164, các đời vua Việt mới chỉ được công nhận như những quận
vương của triều đình Trung Quốc. Thứ bậc đó được xác định như kiểu
“nội chư hầu” mà đất đai của họ về mặt lý thuyết là một phần trong hệ
thống hành chính của vương triều, hoàn toàn do Trung Quốc quản lý. Tuy
nhiên đến năm 1164, các sứ thần Việt Nam tại triều đình Trung Quốc đã
nài xin và đạt được một thỏa thuận để vua Việt được nâng bậc thành
quốc vương trong thang bậc chư hầu của Trung Quốc. Từ đây, vua Việt
Nam được nhìn nhận như một “ngoại chư hầu”. Đất đai của vị vua này cấu
thành một “vương quốc” riêng rẽ với hệ thống hành chính của thiên triều.
Các quan hệ được xác định bởi hệ thống chư hầu không phải là mối quan hệ
ngang bằng giữa hai thể chế. Nó là kết quả của một sự giàn xếp phức tạp
mà, dẫu không được thể hiện cụ thể trong bất cứ một hiệp ước nào, vẫn
trở thành cơ sở cho mối liên kết cá nhân giữa vua của hai nước. Cách
hiểu đó ám chỉ thỏa thuận ngầm từ phía Trung Quốc như một nước bá chủ,
sẽ trợ giúp các nước chư hầu khi cần thiết. Nó cũng có hàm ý rằng nước
chư hầu ngầm chấp thuận tiến hành một số lễ tạ ơn nào đó, và hơn hết là
nộp cống vật định kỳ cho triều đình Trung Quốc. Vị thế chư hầu không cho
phép Việt Nam có tư cách của một thể chế, nhưng giúp cho vua nước này về
mặt nguyên tắc có được sự chính danh từ lễ phong vương của hoàng đế
Trung Hoa. Với nghi lễ này, Thiên tử Trung Hoa một cách long trọng công
bố người được ban danh vị “An Nam Quốc vương”, ghi nhận lòng trung thành
và sự tận tụy của ông này trong việc cai quản đất nước. Lễ phong vương,
vì thế, vừa tạo nên một kiểu phụ thuộc theo nghĩa nào đó, đồng thời
thiết lập nên sự chính danh của vị vua Việt với sự trợ giúp của đế chế
láng giềng.
Dẫu vậy, vẫn không phải dễ để người kế vị của một vương triều Việt lập
luận nhằm thay đổi bất cứ học thuyết bá chủ nào của Trung Quốc đối với
Việt Nam. Bắt nguồn từ
những cuộc xâm lược của nhà Hán và tiếp tục kéo dài tới thế kỷ XIX, đòi
hỏi về bá quyền của Trung Quốc nhắm đến lãnh thổ Việt Nam hơn là nhắm
vào dân Việt Nam. Tham vọng đó không chỉ gắn liền với quan điểm truyền
thống mang tính dân tộc trung tâm và luân lý của Trung Quốc khi tự coi
mình như vị minh chủ của thiên hạ, mà còn được thể hiện rõ ở miền Bắc
Việt Nam, vốn một phần của lãnh thổ hay là “vùng đất lân cận” của nhà
Hán và nhà Đường.6
Cùng với sự độc lập của Việt Nam, việc can thiệp của Trung Quốc chủ yếu
nhằm dựng lại những vị vua Việt Nam bị thần dân của ông ta hạ bệ. Thực
vậy, vấn đề của sự chính danh tiếp tục là mối quan ngại của Trung Quốc
cho đến tận thời kỳ hiện đại. Thậm chí động thái của Hoàng đế Vĩnh Lạc
năm 1407 vốn nhằm để thâu tóm các chư hầu hỗn loạn, khi những người trị
vì ở đây khẩn nài sự giúp đỡ, và để thiết lập lại trật tự một lần và mãi
mãi. Suốt trong triều đại nhà Minh, Việt Nam vốn là một trong ba hoặc
bốn nước chuyên cần nhất
trong việc triều cống cho triều đình Bắc Kinh. Đổi lại, nhiều lần thiên
triều cử binh lực đến lãnh thổ Việt Nam theo sự cậy nhờ của vua Việt để
diệt trừ nội loạn. Cho đến thế kỷ XIX, những thực tế này, cùng với quan
hệ lịch sử lâu đời và các mối dây liên kết về văn hóa, chủng tộc, được
Trung Quốc coi như những bằng chứng đầy đủ cho bá quyền không thể xóa
nhòa của Trung Quốc ở Việt Nam.
Hệ thống chư hầu, dẫu vậy, đã làm hài lòng những lợi ích căn bản của hai
phía. Đối với Trung Quốc, nó trở thành một phương tiện hành xử khôn
ngoan và kinh tế để giữ trong tầm ảnh hướng của mình một quốc gia sát
vách mà đế quốc này thấy rằng không nhất thiết phải trực tiếp cai trị.
Điều này còn giúp Trung Quốc, mặt khác, có một chư hầu hữu dụng có thể
hỗ trợ họ củng cố trật tự xã hội bên mạn sườn phía Nam. Về phần mình, vị
vua Việt Nam nhận thức một cách rõ ràng sự cần thiết phải sự chấp thuận
địa vị chư hầu. Nó giúp ngăn chặn Trung Quốc can thiệp trực tiếp vào
công việc nội bộ của Việt Nam. Ngoài ra, đánh đổi một phần quyền độc
lập, triều đình Việt Nam cũng nhận lại lợi ích là sự đảm bảo giúp đỡ của
thiên triều khi trong nước có nội loạn. Khi đó, Trung Quốc có thể lấy
trách nhiệm mang tính luân lý của mình để bảo vệ một triều đình chính
danh đã được đế quốc này công nhận. Hơn nữa, trong thời bình triều đình
này cũng không phải nơm nớp lo việc Trung Quốc sẽ xâm lược để trực tiếp
cai trị đất nước họ. Bên cạnh đó, giới cầm quyền tối cao của Việt Nam
cũng chẳng phiền lòng gì ở mức độ nào đó với vị thế chư hầu khi nó giúp
họ thu lợi cả về vật chất và văn hóa. Chẳng hạn, các sứ thần được gửi
đến triều đình Trung Quốc có cơ hội mang về sách khoa học và văn học, đó
là chưa kể đến các lợi nhuận thu được từ chút ít buôn bán tiểu ngạch.
Cùng với đó, các vị vua Việt Nam cũng tiến hành những nỗ lực thận trọng
nhằm trung hòa những ảnh hưởng mang tính kiềm tỏa của một hệ thống chư
hầu mà họ không thể công khai dứt bỏ. Bắt đầu với nhà Trần (1226-1400),
các vị vua Việt Nam đã dùng những tên giả [giả
húy] trong các trao đổi thư từ ngoại giao với triều đình Trung Quốc7.
Hay trong năm 1790, hai người giả làm vua Quang Trung được cử tới Bắc
Kinh nhận lễ phong vương cũng nhằm mục đích tương tự.8
Trong mỗi ví dụ trên, đối với vua Việt Nam, việc tìm ra phương cách vô
hiệu hóa sắc phong vương của triều Trung Quốc trong nhận thức của thần
dân Việt có ý nghĩa hơn việc qua mặt triều đình Trung Quốc. Khi chỉ dụ
được ban để phong vương cho một kẻ giả mạo, nó không có hiệu lực và giá
trị. Theo cách đó, sự độc lập của vua Việt Nam xem ra rất ít bị ảnh
hưởng bởi thiên triều.
Trung Quốc và một quan niệm hóa cụ thể về không gian Việt Nam
Dẫu vậy, sự hiện diện diện của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc luôn
là mối đe doạ thường trực có thật cho Việt Nam. Trung Quốc luôn can
thiệp khi đế chế này cho rằng đến lúc họ phải ra tay. Với họ, hoàng đế
của Trung Quốc có trách nhiệm với toàn thể thiên hạ, và vua của mỗi nước
trong thiên hạ ấy chỉ đơn thuần là người đại diện được triều đình Trung
Hoa bổ nhiệm. Thậm chí nếu cần thiết, đường biên giới có thể bị xóa bỏ
để vì thiên tử có thể thâu gồm cả thế giới vào sự rộng lượng và khoan
dung của ông ta.9
Điều đó không có nghĩa rằng cái khái niệm về đường biên cố định và chính
xác giữa đế quốc với các nước chư hầu xa lạ gì trong nhận thức từ phía
Trung Quốc. Đường biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sau chiến tranh
những năm 1070 là một ví dụ. Những sứ thần Việt Nam thể hiện một nỗ lực
ngoại giao bền bỉ và cuối cùng đã làm thất bại sự phản đối của những
người đồng cấp bên phía Trung Quốc.
10 Sau đó, hai nước đi đến một thỏa thuận về định nghĩa đường
biên giới. Ủy ban phân định cương giới đầu tiên được thành lập năm 1084.
11 Sau đó, những cột mốc biên giới dần dần được thiết lập để
chia cắt ngày càng rành mạch hai chế độ cai trị khác nhau. Trong thế kỷ
XVIII, đường biên giới còn được họa hình rành mạch hơn trong những mô tả
của một cuốn sách địa lý chính thức, bằng cả tiếng Trung Quốc và tiếng
Việt, mặc dù vẫn còn nhiều điểm tranh chấp, thỉnh thoảng làm dấy lên
những tranh cãi về đường biên giới.
12 Dẫu vậy, việc vẽ đường
biên giới không bao giờ được triển khai có hệ thống, mà chỉ nhằm để kết
thúc các vấn đề tranh cãi. Việc đi đến thỏa thuận chung ở vùng biên
giới, cụ thể về đường biên được phân định, trên thực tế vẫn bị gián
đoạn. Ví dụ đáng chú ý nhất liên quan đến tranh chấp vào năm 1725 về
vùng bốn mươi lý (mười ba dặm) lấn sâu dọc biên giới Việt Nam -
Vân Nam. Viên tri phủ phía Trung Quốc đề nghị nên lấy dòng sông ở bờ Nam
của lãnh thổ tranh chấp làm ranh giới. Hoàng đế nước Việt là Lê Dụ Tông
kịch liệt phản đối giải pháp này. Hoàng đế Trung Quốc là Ung Chính đáp
lại:
“Chúng ta thực thi thiên mệnh ở khắp hạ giới này. Trong tất cả các chư
hầu, không có lãnh thổ nào không phải của chúng ta. Hà cớ gì nhà ngươi
cứ phải cãi cùn cho bốn mươi lý vặt vãnh này?”
Chiếu chỉ tiếp tục với việc quở trách vị vua Việt Nam bởi thái độ bất
phục của ông này, thêm vào rằng:
“việc phân định biên giới nên là chức phận đầu
tiên của thiên triều”.13
Sau lời quở trách này, vị vua Việt bày tỏ lòng hối hận, rồi thì hoàng đế
Ung Chính một cách khoan dung ban tặng cả bốn mươi lý lãnh thổ
tranh cãi đó về Việt Nam vĩnh viễn.
Tuy nhiên, từ quan điểm của Trung Quốc, biên
giới không được nhìn nhận như những đường ranh chia cắt lãnh thổ của các
quốc gia có chủ quyền, mà là chỉ được coi như sự phân cách về hành
chính. Do đó, mặc dù sự phân định có thể chia tách các vùng đất chư hầu
từ đế quốc, người Trung Quốc không công nhận những đường biên giữa các
quốc gia với mục đích hạn chế chủ quyền của họ. Năm 1370, Hoàng đế Hồng
Vũ [Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương] đưa ra yêu cầu dứt khoát thâu gồm
lãnh thổ Việt Nam vào Trung Quốc khi ông lập luận rằng, bổn phận của
Việt Nam với Trung Hoa nên là luôn gìn giữ núi sông bờ cõi cùng những lễ
hiến sinh, qui phục vào lãnh thổ của Trung Quốc. Biên niên sử Việt Nam
ghi rằng hoàng đế Trung Quốc đích thân soạn một công văn gửi vua Trần
Nghệ Tông cùng các tặng phẩm hiến tế. Một văn bia đã khắc lại cho muôn
đời sau về sự kiện này.14
Sau đó, Minh Thái Tổ tuyên bố rằng núi sông bờ cõi Việt Nam được thâu
gồm vào trong danh mục các thánh địa trong bản đồ Trung Quốc, nơi mà
chúng ngay lập tức được biên mục sau khi những núi sông thiêng liêng
thuộc quyền của Trung Hoa. Đòi hỏi đó có lẽ không mang một động cơ ngầm
nào nhằm mở rộng lãnh thổ. Tuy nhiên điều đó không phải luôn đúng. Cuối
thế kỷ XIII, như đã biết, triều đình nhà Nguyên không còn hài lòng với
hệ thống chư hầu kiểu truyền thống và đã nỗ lực để mở rộng lãnh thổ của
đế chế Mông Cổ ra xa nhất có thể, đòi hỏi Việt Nam phải được hoàn toàn
bị chinh phục.
Việc tầng lớp thống trị người Việt trở nên quá quen thuộc với khái niệm
của Trung Quốc về vương quyền và tính chính danh là một khía cạnh không
thể tránh khỏi trong quan hệ Việt – Trung. Nói như vậy không phải để ám
chỉ rằng, những người cầm quyền Việt Nam áp dụng quan niệm này ở đất
nước họ. Hưởng lợi từ thắng lợi quan trọng đầu tiên trước quân Ngô năm
981, các đời vua Việt kế thừa một truyền thống hoàng tộc bảo vệ biên
cương như một khía cạnh quan trọng cho sự chính danh hóa quyền thống trị
của họ. Một nhà nước do đó được hiểu bao gồm trong nó các đường biên
giới thiên định và vĩnh viễn. Ngọn nguồn của tình thế địa - chính trị
này phần nhiều xuất phát từ bối cảnh các hoàng đế Trung Quốc đeo đuổi
một cách dai dẳng để áp đặt vương quyền của họ lên Việt Nam. Trong khi
đó, trong khoảng đầu thế kỷ XI, các vua triều Lý của một Việt Nam tái
độc lập đã thích ứng với thể chế của triều đại Trung Hoa nhằm đạt được
mục đích riêng của họ. Đường biên giới trở thành một trách nhiệm của
triều đại. Biên giới quốc gia không thể bị nhượng bộ trong khi trách
nhiệm của triều đại không bị đặt dấu hỏi.
15
Mối đe dọa thường trực từ Trung Quốc, do đó từ rất sớm đã làm nảy sinh
lối quan niệm đặc trưng về không gian Việt Nam. Đặc tính địa lý của Việt
Nam được trình bày một cách có hệ thống vào năm 1076 khi tiến hành cuộc
chiến chống quân Tống xâm lược. Nó khẳng định rằng vua Việt Nam có quyền
cai trị lãnh thổ của mình, và điều này là thiên định. Biên niên sử Việt
chép rằng bài thơ này được ngâm như một lời sấm truyền gửi tới tướng sỹ
của Lý Thường Kiệt trước khi họ đẩy lùi đợt tấn công mạnh mẽ của quân
xâm lược nhà Tống:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm lược
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
16
Quan niệm cho rằng an ninh Việt Nam được thần thánh trợ giúp xuất phát
từ niềm tin rằng thiên đình cùng anh linh bất diệt của chư vị anh hùng
trong quá khứ - những người dù đã khuất vẫn nương lại nơi non sông xứ sở
và có thể trợ giúp đất nước lúc nguy khốn – khiến cho chiến thắng chống
lại kẻ ngoại xâm là có thể. Nói chung, sức mạnh thần thánh được tôn vinh
với niềm tin rằng sức mạnh ấy giúp bảo vệ bờ cõi chống lại ngoại xâm,
hoặc góp phần cho sự trỗi dậy của một truyền thống vương triều độc lập
trên mảnh đất Việt Nam.17
Do đó, lãnh thổ quốc gia không chỉ là một không gian hữu hình nơi người
ta sinh sống. Nó cũng bao gồm cả quan niệm siêu nhiêu nơi “anh linh sông
núi còn ở”, những linh hồn của nhiều vị anh hùng, những người đã sống và
chết qua nhiều thế hệ, đã gây dựng và luôn luôn bảo vệ tổ quốc của họ.
Dẫu sự can thiệp của sức mạnh siêu nhiên này được nhấn mạnh có tầm quan
trọng nội tại đến thế nào với dân nước Nam, thì rõ ràng, nó không giúp
gì cho họ trong những thương lượng với Trung Quốc. Tuy vậy, ở Việt Nam,
sợi dây liên kết lịch sử giữa những quan niệm hữu hình và siêu nhiên của
không gian tổ quốc này nuôi dưỡng một truyền thống chống lại sự bành
trướng về phía Nam của người Trung Quốc. Truyền thống đó ngày càng hòa
quyện trong ý thức dân tộc. Bước chuyển này nuôi dưỡng truyền thống công
nhận những vị anh hùng của đất nước Việt Nam, những người đã ghi dấu lên
cuộc chiến bảo vệ tổ quốc chống lại những cuộc xâm lăng của Trung Quốc,
đôi khi phải chống lại quân địch đông hơn gấp bội. Chính khái niệm đó đã
đặt lên vai của các ông vua Việt Nam một trách nhiệm ghê gớm: đức minh
quân phải chứng tỏ khả năng chống đối sự đô hộ chính trị của triều đình
Trung Quốc.
Bác bỏ tham vọng bá chủ của Trung Hoa
Tương tác với Trung Quốc và tiếp xúc với đế chế văn hóa Trung Quốc,
ngược đời thay, lại có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình cách Việt
Nam tự nhìn nhận mình. Các học giả Việt Nam rất quen thuộc với các tài
liệu học thuật của Trung Quốc, còn văn chương Trung Quốc thậm chí được
người Việt sử dụng làm vũ khí ngoại giao chống lại chính phía Trung
Quốc.18
Triều đình Việt Nam rất nhiều lần nhắc nhở triều đình phương Bắc về tín
điều Trung Hoa rằng một vị minh quân phải thể hiện một thái độ ôn hòa
với người lạ. Ký ức Việt Nam đối với Trung Quốc thường ám chỉ một niềm
tin, cũng như một lập luận can ngăn nhà vua không xâm phạm lãnh thổ Việt
Nam. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ cốt yếu được ấn định cho sử ký
truyền thống Việt Nam là để định nghĩa khái niệm về một vương quốc Việt
Nam hoàn toàn tách biệt, và về một biên giới vừa thực tế, vừa thần
thoại. Điều này nhằm giúp Việt Nam vĩnh viễn né tránh tham vọng của
Trung Quốc vốn dùng bất cứ danh nghĩa nào đó cất quân xâm lược. Khi được
vua Trần Thánh Tông ban lệnh biên soạn quốc sử của nước Đại Việt (hoàn
thành năm 1272), Lê Văn Hưu đã sưu tầm nhiều trích đoạn triết học và
lịch sử Trung Hoa, mà một vài trong số đó được ông tách khỏi bối cảnh
gốc, để chứng minh cho sự lâu đời của thể chế quân chủ Việt Nam. Luận
điểm này sau đó được Trần Thái Tông cùng những người kế vị ông dùng để
chống lại Kubilai Khan [Hốt Tất Liệt]. Các trích đoạn đó được dùng nhằm
bảo vệ vị thế độc lập của hoàng đế Việt Nam trước tham vọng bá chủ của
Trung Quốc. Trích dẫn được chỉnh sửa lại cho hợp với lịch sử Việt Nam và
để thể hiện rằng quan hệ chư hầu của Việt Nam với Trung Quốc chỉ là một
sự hư cấu.
19 Lê Văn Hưu mở đầu công trình của ông một cách cụ thể bằng
năm 207 trước Công lịch với thành quả của người khai sinh ra nước Nam
Việt - Triệu Đà. Theo Lê Văn Hưu, Triệu Đà chính là người đầu tiên thiết
lập nên một đế quốc phía Nam có vị thế sánh ngang với đế chế phương Bắc:
"Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang
với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho
nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt
sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân
quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, lấy nhân [nghĩa] mà giữ ngôi,
thì bảo vệ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé
được".
20
Tương tự, một công trình khác được biên soạn vào khoảng cuối triều Trần
là Việt Sử Lược21
đã tách Việt Nam khỏi khu vực bị thống trị bởi các hoàng đế thông tuệ
xưa kia của Trung Quốc, từ đó cũng bác bỏ ảnh hưởng giáo hóa của thời
đại vàng son trong lịch sử Trung Quốc đối với Việt Nam. Mục đích của
luận điểm này chứng minh rằng người sáng lập ra nhà nước Văn Lang, vị tổ
tiên của nước Việt Nam, bằng vai với những vua khai mở của Trung Quốc. Ở
chừng mực nào đó, Lạc Long Quân, vị vua đầu tiên của nhà nước Văn Lang
cũng được cũng được xem như một Hiên Viên Hoàng Đế của Việt Nam mà những
kiến tạo văn hóa của ông cũng sánh được với đức Hoàng đế huyền thoại này
của Trung Quốc. Nói rằng nền văn minh cổ Văn Lang có nhiều tương đồng
với Trung Quốc xa xưa, trên thực tế cũng là cách để khẳng định sự ngang
bằng giữa phương Nam và phương Bắc, dựa trên chính những tiêu chuẩn văn
hóa, chính trị mà người Trung Quốc đã đặt ra nhằm giao giảng cho sự ưu
việt vượt lên hết thảy của họ. Sự nhìn nhận Việt Nam như một dân tộc có
văn hóa (văn hiến chi bang)
như Trung Quốc này được Nguyễn Trãi nhắc lại vào thế kỷ XV khi ông viết
tuyên ngôn Bình Ngô Đại Cáo để bố cáo việc đánh đuổi nhà Minh ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương22
Trung Quốc chưa bao giờ ngừng mưu cầu làm bá chủ, và Việt Nam chưa bao
giờ ngừng chống lại tham vọng đó. Điều đó giải thích tại sao Việt Nam
luôn bền bỉ bảo vệ một niềm tin chắc chắn, vốn đi ngược lại với tín điều
của người Trung Quốc, rằng Việt Nam và Trung Quốc hài lòng với chủ quyền
tương đương. Sự kiên định đó được diễn giải một cách rõ ràng, bác bỏ cái
đòi hỏi chiếm lĩnh địa vị trung tâm và độc tôn trong thiên hạ của Trung
Quốc.
23 Vào thế kỷ XV, sử gia Ngô Sĩ Liên trong lời tựa cho một
cuốn sử biên niên khác đã lập luận rằng, người Việt có nguồn gốc từ Thần
Nông, một trong những vị “vua thần thoại” trong truyền thuyết Trung
Quốc, nhưng ở một nhánh phả hệ tách biệt với Trung Quốc. Lập luận này
góp phần tạo nên ý niệm lý tưởng của quan hệ Việt Trung: dựa cùng vào
một nguồn cội, đồng thời có một lịch sử độc lập hoàn toàn, chối bỏ quyền
bá chủ chính trị của Trung Quốc. Như một hệ quả tất yếu, các vua Việt
Nam hình dung thế giới dưới dạng của “Bắc” và “Nam”. Theo đó, họ khẳng
định quả quyết rằng kể từ khi Việt Nam được giải phóng khỏi ách thống
trị của Trung Quốc, họ đã tiếp nối truyền thống đế quyền phương Nam vốn
bắt nguồn từ thời cổ đại. Người Việt, giờ đây đến lượt họ có thể nỗ lực
để khống chế những láng giềng Đông Nam Á trong diễn ngôn riêng của họ về
thiên hạ. Ở đó Đại Việt chiếm giữ vị trí trung tâm.
25
*
*
*
Qua sự áp đặt các thiết chế tổ chức xã hội, hành chính, và gia đình, ách
cai trị của Trung Quốc đã khiến cho người Việt gắn kết với nhau, đảm bảo
cho sự tồn tại lâu dài của họ. Chính sự gắn kết đó giúp người Việt có
khả năng đẩy lùi những cuộc xâm chiếm trong tương lai của Trung Quốc lên
đất nước, đồng thời mở rộng lãnh thổ về phía Nam cho tới vịnh Thái Lan.
Những ký ức kháng cự thành công các cuộc xâm lăng của Trung Quốc từ
phương Bắc đặc biệt giúp người Việt nhận ra bản thân mình, dù cũng phải
thừa nhận rằng khó để biết bản sắc này thấm sâu xuống đến tầng lớp xã
hội nào, hay ở tình huống cụ thể nào nó trở nên rõ ràng, hiển nhiên. Dẫu
vậy, rất có thể các sử gia Việt Nam, bắt đầu từ Lê Văn Hưu cho đến Ngô
Sỹ Liên và những người kế tục, căn bản dựa trên những thắng lợi chống
những cuộc xâm lược liên tục của Trung Hoa để đặt nền móng cho niềm tin
vào sự bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Họ đã dần dần, khéo léo
chuyển ký ức chiến thắng chống quân xâm lược Trung Quốc vào, hơn cả
những ghi chép lịch sử, sức mạnh lịch sử theo lẽ riêng của họ.
26 Có vẻ như sự kháng cự nhằm chống lại, đánh bại các cánh
quân xâm lược Trung Quốc song hành với một truyền thống lâu dài vay mượn
văn hóa Trung Hoa, lại cho người Việt khả năng nhận biết bản thân mình
như một dân tộc hoàn chỉnh để tồn tại và duy trì một sức mạnh lịch sử
mạnh mẽ.
T.H.
dịch
[1]
Nguyên văn Anh ngữ “The Vietnamese Resistance to Chinese
Expansion,
trong International Convention of Asia Scholars
[Hội nghị Quốc tế của các học giả châu
Á], Noordwijkerhout,
25-28 tháng 6 năm 1998, in trong Dòng Việt, số 6, năm
1999, tr.117-131
[2]
Xinhua
Domestic Service
[Tân Hoa xã, bản quốc nội], ngày 8 tháng 12 năm 1997.
2
Xem thêm, ví dụ Võ Long Tê, Les archipels de Hoàng-Sa et de
Trường-Sa selon les anciens ouvrages vietnamiens d’histoire et
de géographie [Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua thư
tịch sử-địa Việt Nam xưa], Sài
Gòn, 1974; P.-B. Lafont, “Les archipels Paracels et
Spratley (Un conflit de frontières en Mer de Chine méridionale)”
[Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Xung đột biên giới trên
biển Nam Trung Hoa)], Les frontières du Vietnam
[Các đường biên giới
của Việt Nam], Paris, L’Harmattan, 1989, tr.244-261.
3
Dưới triều đại nhà Hán (206 tr. Công lịch – 220), khu vực được
cắt đặt vào quận Giao Chỉ do một thái thú người Trung Quốc cai
trị. Một kiểu đô hộ khác do nhà Đường áp đặt tổ chức lại vùng
này thành Giao Châu Đô hộ phủ, đến năm 679 đổi thành An Nam Đô
hộ phủ.
4
J. K. Fairbank & Teng Ssu-yü, Ch’ing administration: Three
studies [Bộ máy
triều Minh: Ba nghiên cứu], Cambridge, Harvard U.P.,
1960, tr.130.
5
K. W. Taylor, “Authority and legitimacy in eleventh-century
Vietnam” [Vương quyền
và tính chính danh trong thế kỷ XI ở Việt Nam], The
Vietnam Forum
[Diễn đàn Việt Nam], n.12 (1988), tr.20-59.
7
Hoàng Xuân Hãn, “Vụ Bắc sứ năm Canh thìn đời Cảnh Hưng”, Sử
Ðịa, 6, 1967, tr.143-144.
8
Trương
Bửu
Lâm, “Intervention versus tribute in Sino-Vietnamese relations”
[Sự đối chọi giữa xâm
lược và triều cống trong quan hệ Việt – Trung], trong
The Chinese World Order
[Trật tự thế giới của
Trung Quốc], John K. Fairbank ed., Cambridge, Harvard
U.P., 1968, tr.174-177.
9
Theo Vĩnh Lạc thực lục, 86 : 1b, trích bởi Vương Canh Vũ
[王赓武
Wang Gungwu], “Early Ming relations
with Southeast Asia” [Mối quan hệ của triều Minh sơ với Đông Nam
Á], trong The Chinese World Order
[Trật tự thế giới của
Trung Quốc],
sách đã dẫn, tr.54-55.
10
Xem Masahiro Kawahara, “Relations between the Lý dynasty and the
Sung” (“Quan hệ giữa triều Lý và nhà Tống”), trong History of
international relations between Vietnam and China (Lịch sử bang
giao quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc), Tatsuro Yamamoto
biên tập, (tiếng Nhật), Tokyo, Yamakawa Shuppansha, 1975,
tr.29-82.
11
Đại Việt sử ký toàn thư,
Hà Nội, tập I, 1983, tr.294.
12
Những sự cố sảy ra, ví dụ trong năm 1689 ở biên giới Việt Trung,
trong khoảng năm 1773-1778 ở biên giới Hưng Hóa, chưa kể tới
tranh chấp liên quan đến ba huyện của phủ Tuyên Quang kéo dài
hơn 40 năm, từ năm 1688 đến 1727.
13
Lloyd E. Eastman, tài
liệu đã dẫn, trang
43.
Xem thêm Philippe Langlet, “La frontière sino-vietnamienne du
XVIIIe au XIXe siècle”, Les frontières
du Vietnam, Paris, L’Harmattan, 1989, p. 72.
14
Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, 1985, tập II, tr.148.
15
O. W. Wolters, “Lê Văn Hưu’s
treatment of Lý Thần Tông’s reign (1127-1137)” [Luận giải của Lê
Văn Hưu về ngai vàng của Lý Thần Tông (1127-1137)] ,
Southeast Asian History and Historiography. Essays presented to
D.G.E. Hall, [Sử học và việc chép sử ở Đông Nam Á. Khảo luận
được trình sử gia
D.G.E. Hall].
Luận văn C.D. Cowan &
O.W. Wolters ed., Ithaca, Cornell U.P., 1976, tr.203-226.
16
Nguyễn Thế Anh, Bùi Quang Tung et Nguyễn Hương, Le Đại-Việt
et ses voisins. Paris, L’Harmattan, 1990, tr.31.
17
K. W. Taylor, “Notes on the Việt điện u linh tập” [Ghi chép về
Việt điện u linh tập], The Vietnam Forum [Diễn đàn Việt
Nam], số 8 (1986), tr.26-59.
18
O. W. Wolters, History, culture and region in Southeast Asian
perspectives [Lịch
sử, văn hóa và khu vực trong hướng tiếp cận Đông Nam Á],
Singapore, ISEAS, 1982, tr.63.
19
O. W. Wolters, History, culture and region in Southeast Asian
perspectives, tr. 86.
20
Đại Việt sử ký toàn thư. Ngoại kỷ, Hà Nội, 1983, tập I,
tr.134. Xem thêm O. W. Wolters, “Historians and emperors in
Vietnam and China : Comments arising out of Lê Văn Hưu’s
History, presented to the Trần court in 1272” [Các sử gia và
hoàng đế ở Việt Nam và Trung Quốc: Nhận xét về sử phẩm của Lê
Văn Hưu, được biên soạn cho triều Trần năm 1272], trong
Perceptions of the Past in Southeast Asia
[Nhận thức về quá khứ
ở Đông Nam Á], A. Reid & D. Marr biên tập,
Singapore, Heinemann, 1979, tr.69-89.
21
Trần Quốc Vượng (dịch), Việt sử lược, Hà Nội, Văn Sử Địa,
1960.
22
Trích bởi Nguyễn Thế Anh, “La frontière sino-vietnamienne du XIe
au XVIIe siècle” [Biên giới Trung- Việt từ thế kỷ XI
tới thế kỷ XVII], Les frontières du Vietnam
[Những đường biên giới
của Việt Nam], Paris, L’Harmattan, 1989, tr.66.
23
O. W. Wolters, “Historians and emperors in Vietnam and China”
[Các sử gia và hoàng đế ở Việt Nam và Trung Quốc], tài liệu đã
dẫn, trang 69-89.
25
Xem Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese model
[Việt Nam và mẫu hình
Trung Hoa], Cambridge, Harvard U.P., 1971, tr.234-246.
26
Tài liệu đã dẫn, tr.20. |