GẶP
GỠ TẠI NGHI TÀM- Lần 2
Nguyễn Thế Hùng tường thuật
Sau buổi gặp gỡ tại Nghi Tàm
ngày 6-10-2021, mấy anh em chúng tôi lại gặp nhau lần 2. Sự bức xúc về
các cuộc tháo chạy của hàng ngàn người bằng xe máy, xe đạp, thậm chí cả
bằng chân trần nữa khỏi Sài Gòn vẫn thôi thúc chúng tôi. Như TS Trần
Đình Thiên đã nói, ai không đau khổ về cuộc “di tản mới” này có lẽ không
còn là người Việt nữa. Lần trước GS Vương đã nhấn mạnh "chỉ có an cư mới
lạc nghiệp", mới tránh được các cuộc tháo chạy, như định mệnh của dân
tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Ông nhấn mạnh vào các vấn đề:
- An cư lạc nghiệp- những khái niệm và điều kiện cho an cư lạc nghiệp.
- Những kinh nghiệp thất bai: các khu công nghiệp (KCN), các dây chuyền
công nghệ tự động cao, các khu nhà trọ xập xệ, mỗi phòng mười mấy mét
vuông, các lớp mẫu giáo lùa gió,... những
hình ảnh này không phải đều không phải là nông thôn mới an cư lạc
nghiệp.
- Các cơ hội còn lại: Quy hoạch phát triển nông thôn, xây dựng các làng
công nghiệp hóa quy mô nhỏ, giảm tải cho các thành phố lớn (megacities).
Anh
có xem bóng đá không?
Lần này bạn Đại mời được TS. Đặng Kim Sơn, chuyên gia cao cấp về nông
nghiệp. TS Sơn hôm nay là diễn giả chính. Ông vóc người nhỏ mà thanh
mảnh, mái tóc đã bạc nhiều, nhưng dáng vẻ rất nhanh nhẹn. Khi ông bước
vào, Đại Sứ Đinh Hoàng Thắng hồ hởi chào và hỏi sao ông học Trường Trỗi
mà hiền thế, không gấu như tôi tưởng. TS Sơn chỉ một bạn gần đấy nói,
anh này cũng trường Trỗi mà cũng hiền khô.
TS Đặng Kim Sơn là con trai một vị tường nổi tiếng ở Điện Biên Phủ,
Tướng Đặng Kim Giang. Ông là một nhà nghiên cứu lão luyện trong nông
nghiệp, là người luôn có những suy nghĩ về nông dân, về thân phận của họ
và ước mơ "mưu cầu hạnh phúc" của nông dân.
Ông kể vào khoảng những năm 1990, một lần đi dự hội nghị ở Brazil. Khi
bước vào phòng họp, mọi người hoan hô ầm ầm, ông quay phải quay trái
nhìn xem họ hoan hô ai, không có ai ngoài ông. Và ông thực sự lúng túng.
Họ hỏi "anh có xem bóng đá không?"
Ông bảo có. Vậy nếu một ngày nào đó, mà đội Việt Nam thắng đội Brazil
thì có đáng được hoan hô không? Ông bảo không thể tin đội Việt Nam có
thể thắng đội bóng hàng đầu thế giới. Họ bảo các anh đang thắng, thắng
đậm đấy. Các anh chỉ quen uống trà ngàn năm nay, chưa bao giờ trồng
cafe, mà mới mấy năm các anh đã trở thành nhà xuất khẩu cafe hàng đầu
thế giới rồi.
Lời khen ấy như cứa vào tim ông. Sao nhỉ? Nông dân Việt Nam làm được
nhiều cafe, nhiều tiêu, nhiều điều, .... lại cả cá, tôm, lúa, chè…mà vẫn
khổ, vẫn phải “chạy vô-nhào ra” các KCN và chưa bao giờ có thể tự tin
bước lên một đẳng cấp mới. Cũng như đội tuyển bóng đá Việt Nam đã thắng
vài trận nhưng vẫn là đội bóng đẳng cấp dưới.
Các
anh có máy chiếu không?
Khi bắt đầu buổi thuyết trình, TS Sơn hỏi "các anh có máy chiếu không?"
Thật không may hôm đó máy chiếu hỏng. Loay hoay mãi không sửa được, đành
dùng một máy tính có màn hình lớn để ông trình bày. Ông bảo không có máy
chiếu ông không thể trình bày được, vì bài nói của ông phải có số liệu.
Ông nhấn mạnh, khi chúng ta chỉ trích người điều hành yếu kém, nhưng bản
thân mình lại phản biện cảm tính, thiếu số liệu thì lỗi lại ở chúng ta.
Và ông đã làm điều ngược lại, từng câu nói, từng góc nhìn của ông đều
được dẫn chứng bởi các số liệu từ những nguồn nghiên cứu, điều tra khoa
học tin cậy. Những con số thực sự đã biết nói, đôi khi còn khiến người
nghe phải tự phủ nhận lại những quan điểm trước đây của chính mình khi
nhìn vào số liệu, bảng biểu.
Một phần những số liệu này cũng đã được ông xuất bản trong cuốn sách mới
đây mà ông làm chủ biên “Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam”.
Bài của ông khá dài, khá nhiều số liệu và chúng tôi sẽ cố gắng tóm tắt
tinh thần chính (về số liệu cụ thể thì những ai quan tâm có thể liên hệ
với tác giả để trao đổi chi tiết hơn). Logic trình bày của ông bắt đầu
từ thực trạng, sau đó tìm nguyên nhân, và đề xuất giải pháp. Ông có so
sánh với những nước xung quanh, để nhìn rõ hơn mô hình cần xây dựng ở
Việt Nam.
Nói về thực trạng hiện tại ở Việt Nam, ông lại bắt đầu từ góc nhìn khá
xa mà sau đó mới thấy gần gũi và sắc bén. Để bước vào sân chơi của nước
có thu nhập trung bình cao thì Nhật Bản đã phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng 8.5% trong 11 năm, Hàn Quốc 9.5% trong 14 năm và Trung Quốc 10%
trong 15 năm liên tục. Với Việt nam, đã 4 kỳ kế hoạch liên tiếp, các chỉ
số tăng trưởng luôn đạt thấp hơn những mục tiêu đề ra.
Muốn tăng tốc, Việt Nam đang áp dụng mô hình ưu tiên đầu tư vào các nhóm
ngành chính có tốc độ tăng trưởng cao. Dù là nước nông nghiệp “rừng vàng
biển bạc" nhưng đầu tư toàn xã hội vào Nông lâm thủy sản suốt 20 năm
(1995-2015) lại thấp hơn rất nhiều so với ưu tiên đầu tư cho các khu vực
Công nghiệp-Xây dựng và Dịch vụ bởi hai mảng này có khả năng đem lại tỉ
lệ tăng trưởng cao.
Chúng ta đôi khi chỉ nhìn thấy giải cứu nông sản (dưa hấu, xoài, cam,…)
mà ít nói tới giải cứu công nghiệp, giải cứu xây dựng. Thực tế thì chính
khu vực kinh tế đô thị cũng là nơi có nhiều sản phẩm dư thừa do chênh
lệch cán cân đầu tư, do thị trường trong nước có sức mua yếu vì đa số cư
dân sống ở nông thôn chỉ có mức thu nhập bằng nửa số nhỏ hơn dân cư đô
thị.
Sự chênh lệch thu nhập của lao động tại thành thị cao hơn ở nông thôn đã
tạo ra một làn sóng dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, theo
đúng quy luật giá cả của tài nguyên. Sự khác biệt giữa nông thôn và
thành thị càng lớn dần khi một bên nhiều việc làm, điều kiện sống tốt,
quá tải dân số, sản xuất dư thừa với một bên là thu nhập thấp, điều kiện
sống kém, thiếu nhân lực và sức mua kém.
Chúng ta đã cố gắng nhiều trong các chương trình nông thôn mới, tái cơ
cấu nông nghiệp nhưng nhìn vào những con số thống kê mới thấy tuy nông
thôn được phát triển nhưng thành phố lại tiến nhanh hơn rất nhiều. Và
ông đã đưa ra những con số, cứ khô khan phần trăm, chấm phẩy nhưng lại
làm rõ nguyên nhân của những dòng dịch chuyển ngầm của tảng băng mà ta
đang mới nhìn thấy phần nổi các con số cụ thể về sự khác nhau giữa nông
thôn và thành thị.
Đó là người thanh niên nam và nữ ở nông thôn đều có chiều cao, cân nặng
kém hơn ở đô thị; trình độ học vấn, năng lực tay nghề, năng suất lao
động của lao động nông thôn thấp hơn đô thị; tỉ lệ chết non, suy dinh
dưỡng của trẻ em nông thôn cao hơn đô thị; tỉ lệ đói nghèo, thu nhập
trung bình, tiền để dành TT cao gấp 2 lần NT. Một thống kê đáng kinh
ngạc là tỉ lệ tự tự ở Tây Nam Bộ cao nhất nước.
Hai
hàng rào đối với người di cư
Dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị là qui luật nhưng lại bị
“hai hàng rào cản” chia thành hai dòng người: trình độ chuyên môn khác
nhau mở cho “lao động chính thức” được đóng bảo hiểm, được tuyển dụng,
có công đoàn bảo vệ ra khỏi nông thôn nhưng đưa dòng lao động yếu thế
sang “phi chính thức”, làm chui không hợp đồng, không bảo hiểm và không
tham gia bất cứ nghiệp đoàn nào.
Cả hai dòng người này ra khỏi nông thôn, lại bị hàng rào “khả năng cung
ứng dịch vụ tại đô thị” chặn lại. Vì đô thị không đủ chỗ ở, giao thông
ùn ứ, trường học, bệnh viện quá tải,… và việc làm chính thức hạn hẹp nên
chỉ những người may mắn có việc
làm tại chỗ hoặc nhập được hộ khẩu, còn số đông trở thành “lao động di
cư” sống trong các khu nhà trọ, không được hưởng đầy đủ các dịch vụ như
trường học, bệnh viện, văn hóa,... chấp nhận làm “công dân hạng hai”,
không có cơ hội định cư trên mảnh đất họ đổ mồ hôi xây dựng.
Như vậy, lực lượng thanh niên thoát khỏi nghề nông may mắn nhất là vào
được các KCN, cơ quan, doanh nghiệp có lương mỗi tháng vài triệu, chịu
đựng làm việc tăng ca, chấp nhận trạng thái “di cư”, ở trong các khu trọ
tồi tàn chấp nhận bị loại thải ở tuổi 35 - 45. Còn đa số lao động làm
mọi nghề “phi chính thức” xe ôm, cửu vạn, thợ xây, ô sin, … không được
bảo vệ, không có tương lai. Không được "an cư" nơi đất mới nên cái
nghiệp họ đang hành không thể gọi là "lạc nghiệp".
Tại sao người lao động lại phải đánh đổi bằng mọi giá để vượt qua các
rào cản kia nhằm tìm bằng được việc làm cho mình? Hỏi đã là trả lời,
chính họ đã không tìm thấy cơ hội việc làm cho mình trong mảng nông
nghiệp không được đầu tư tại quê hương mình. Các dòng đầu tư công nghiệp
và chế tạo, các dòng vốn FDI tập trung vào khu vực lân cận trong 11 tỉnh
phía bắc (đóng góp 30% ngân sách) và 6 tỉnh phía nam (đóng góp 42 % ngân
sách).
Nền kinh tế đất nước như một đoàn tàu có hai đầu (đẩy và kéo) là Sài Gòn
và Hà Nội (kèm một số tỉnh ĐBSH và ĐNB) còn các toa là những tỉnh thành
khác thì thụ động, đóng góp âm (thu 43% nhưng chi 71%) vào lực đẩy phát
triển. Mô hình tăng trưởng kinh tế này tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường
nếu những biến cố tương tự như Covid-19 xảy ra trong tương lai.
Bệnh
viện 5 sao, trường học 5 sao, nhà vườn 5 sao ở nông thôn
Giải pháp nào cho thực trạng trên? Nguyên nhân nằm ở chênh lệch cán cân
đầu tư thì giải pháp liệu có đơn giản là phân bổ đều đầu tư, hay còn gọi
là phân bổ kinh tế như một số người thích dùng từ này? Chưa kể sự chạy
đua đầu tư giữa các địa phương lại bị đánh đổi bằng những cái giá về môi
trường, tài nguyên và năng lượng. Những hệ lụy lại bị trả giá ở nhiều
thế hệ sau.
Ông Sơn đưa ra mô hình phát triển bao trùm, hai tập hợp nông thôn và
thành thị giao thoa chung nhau để biến cả nước là thị trường, sức mua là
toàn dân.
Tổ chức lại một số dịch chuyển mới để tạo cơ hội đem đô thị về nông
thôn. Phát triển cả nông thôn và đô thị gắn kết nhau về cảnh quan, môi
trường, cơ sở hạ tầng, dịch vụ (như xây dựng hệ thống giao thông, các
khu đô thị thấp tầng có sân vườn, bệnh viện, trường học cao cấp), tăng
đầu tư công nghiệp và dịch vụ phục vụ nông nghiệp, phát triển sinh kế
phi nông nghiệp ở nông thôn, xì hơi bớt “quả bom” 40% lao động nông thôn
không có việc làm.
Với tốc độ đô thị hóa đạt 3,2%/năm thì sau 2035-40 tỉ lệ đô thị hóa sẽ
đạt 50%. Khi sự chênh lệch mức sống nông thôn và thành thị được thu hẹp,
thì mỗi người nông dân sẽ có cơ hội phát triển trên chính mảnh đất nơi
mình sinh ra và đất nước toàn dụng lao động. Đó là mô hình giao thoa đô
thị-nông thôn mà những nước có một số điều kiện khởi đầu như Viêt Nam đã
phát triển thành công như Hàn Quốc, Đài Loan, Israel.
Ông cũng phân tích kĩ hơn cơ hội “cửa sổ vàng" về dân số. Cái cửa sổ này
sẽ mở ra cho mỗi nước có 1 lần trong quá trình phát triển trong vài chục
năm. Các nền kinh tế đi trước đã tận dụng cơ hội vàng về lao động kịp
thời bằng toàn dụng lao động và nay dân họ bắt đầu già thì đã kịp giầu.
Còn Việt Nam chúng ta, cửa sổ vàng về lao động đã mở, có lẽ đã được nửa
thời gian, chúng ta chưa giầu và sắp già. Có thể chúng ta sẽ mất cơ hội
và một người trẻ sẽ phải lao động nuôi vài người già, quỹ bảo hiểm sẽ
vỡ, cả ở quy mô gia đình và quy mô quốc gia.
Chắc hẳn giải pháp nào cũng không bao giờ có kết quả nếu thiếu sự trao
đổi, nhận thức cùng nhau để đi tới những hành động chung. Nếu cả xã hội,
từ người lãnh đạo, đến các chuyên gia, và cả người nông dân nữa, đều
nhận thức được về cơ hội, về giải pháp, thì có thể giải phóng một năng
lượng to lớn, dẫn đến những thay đổi lớn. Ông mong muốn mỗi người ở vị
trí của mình sẽ đóng góp công sức, dù nhỏ cho công cuộc chung này.
Sau đó, TS Phạm Gia Minh nói về bèo hoa dâu và những tiềm năng của nó
trong nông nghiệp như có thể làm phân bón, làm thức ăn chăn nuôi, cải
tạo môi trường. Bèo hoa dâu có năng lực hấp thụ và chuyển hóa CO2 gấp 3
lần các loại cây khác. Theo ông bèo hoa dâu là một tác nhân quan trọng
của cuộc cách mạng nông nghiệp mới.
Cuối cùng TS Nguyễn Ngọc Chu nhận xét rằng Đặng Kim Sơn đã đưa ra lời
giải cho một mô hình kinh tế mới, không chỉ an cư lạc nghiệp, mà cho một
bài toán tổng thể làm sao phát triển đất nước hài hòa hơn, hạnh phúc
hơn. Đó là giải pháp giao
thoa đô thị và nông thôn thành một miền phát triển đồng nhất, cung cấp
việc làm toàn dụng cho hơn 30 triệu lao động phi chính thức. Họ sẽ trở
thành những người lao động chính thức, đầy sáng tạo. Nhưng ông cũng bảo
ngay cả minh quân (nếu có), có chấp nhận giải pháp của TS Sơn, cũng chưa
biết bắt đầu từ đâu. Do đó, phải nghiên cứu tiếp, cụ thể hơn, khả thi
hơn. Tác giả gửi cho viet-studies ngày 29-10-21 |