Nhật Bản hậu Abe: Sự ổn định chính trị đang bị đe dọa? Bản dịch bài Japan after Abe: Political stability under threat? (Nikkei Asia Review 13-7-22)
Người dịch: ArchiVu
Thứ Sáu ngày 8 tháng 7, hai ngày trước bầu cử Thượng viện, cựu Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe đang có bài phát biểu gần gũi vui vẻ theo phong cách
đặc trưng Abe để ủng hộ ứng cử viên của Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền tại
thành phố phía tây Nhật Bản Nara thì ông gục xuống sau hai tiếng nổ lớn,
máu chảy nhiều và được đưa đi bệnh viện. Abe qua đời vào lúc 17 giờ 03
phút cùng ngày.
Trong thế kỷ 21, Abe có lẽ là chính trị gia đáng gờm nhất của Nhật Bản
cho đến nay. Ông là thủ tướng Nhật Bản nắm quyền lâu nhất trong lịch
sử, với kỷ lục 3.188 ngày tại vị, với di sản từ các chính sách kiên định
"Abenomics" đến việc chuẩn bị cho Nhật Bản đăng cai Thế vận hội Tokyo
2020.
Các vụ ám sát thủ tướng ở Nhật hầu như chưa từng xảy ra thời hậu chiến
và tội phạm liên quan súng đạn cực kỳ hiếm, cái chết của Abe là một sự
kiện gây ảnh hưởng lớn đến mức có thể làm lu mờ cả chính di sản của ông.
Vụ việc gây rúng động không chỉ ở Nhật Bản mà còn gây ra những làn sóng
bàng hoàng trên toàn cầu vào thời điểm thế giới đang bất ổn sau đại dịch
COVID-19 và cuộc xâm lược Ukraine của Nga.
Mang trong mình dòng máu trâm anh thế phiệt, xuất thân từ một gia đình
quyền thế, ông của Abe là thủ tướng và cha là ngoại trưởng, Abe xuất
hiện ở một địa vị đỉnh cao trong xã hội Nhật Bản.
Sát thủ Tetsuya Yamagami, 41 tuổi, một cựu quân nhân, tuyên bố rằng anh
ta đã bắn Abe do hận thù vì tin rằng Abe có liên quan với Liên đoàn Gia
đình vì Hòa bình và Thống nhất Thế giới, được biết đến rộng rãi với tên
gọi Nhà thờ Thống nhất, một nhóm tôn giáo mà mẹ anh ta đã quyên góp một
số tiền lớn và vì đó mà phá sản. Lãnh đạo nhóm này đã xác nhận rằng mẹ
của Yamagami là một thành viên tích cực, nhưng phủ nhận bất kỳ mối liên
hệ nào với Abe.
Cuộc điều tra về vụ ám sát cho đến nay cho thấy Yamagami hành động một
mình và không có động cơ chính trị nhưng hình ảnh một lãnh đạo quốc gia
gục xuống vũng máu trên đường phố gợi nhớ về một thời kỳ khó khăn trong
lịch sử chính trị Nhật Bản. Trong những năm 1930, đất nước này đã chứng
kiến một loạt các cuộc tấn công nhằm vào Thủ tướng Tsuyoshi Inukai và
các chính trị gia khác. Bạo lực đã làm xói mòn nền dân chủ và cuối cùng
làm phát sinh chủ nghĩa quân phiệt dẫn đến chiến tranh.
Cuộc bầu cử thượng viện được tổ chức ngay sau khi cựu Thủ tướng Abe qua
đời đã kết thúc với chiến thắng nghiêng về LDP cầm quyền, hiện do Thủ
tướng Fumio Kishida đứng đầu. Trong thời kỳ hậu Abe, Kishida có trách
nhiệm lớn hơn bao giờ hết là đảm bảo rằng các quyền tự do ngôn luận và
dân chủ của Nhật Bản không bị đàn áp bởi bạo lực.
Con người Abe
Thi thể của Abe đã được đưa về nhà của ông ở Tomigaya, Tokyo, vào Chủ
nhật. Hôm thứ Ba, một đám tang được tổ chức riêng tư, chỉ có gia đình và
bạn bè thân thiết của Abe, trong đó có Thủ tướng Kishida.
Tuy nhiên, nhiều người đã xuất hiện bên ngoài địa điểm tổ chức tang lễ,
Đền Zojoji ở Tokyo, để bày tỏ lòng kính trọng. Thi thể của Abe được đưa
đi trong một chiếc xe tang đen, bên trong là vợ ông, bà Akie, đang cúi
đầu.
Bất kỳ ai từng dùng bữa với Abe đều cảm thấy sự nhiệt tình của ông trong
việc trò chuyện và khả năng hình thành các mối quan hệ. Tại các cuộc họp
lớn, Abe sẽ đi từ bàn này sang bàn khác, nói chuyện riêng với những
người tham gia.
Vụ ám sát của ông đã trở thành tiêu điểm toàn cầu, một tuyên bố chung
của Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Úc Anthony Albanese và Thủ tướng
Ấn Độ Narendra Modi được công bố vào ngày Abe qua đời gọi ông là "một
nhà lãnh đạo có khả năng thay đổi đối với Nhật Bản." Một thông điệp của
Tổng thống Nga Vladimir Putin gửi tới gia đình Thủ tướng Abe mô tả ông
là "một người tuyệt vời" và "một chính khách xuất chúng".
Cựu đại sứ Mỹ tại Nhật Bản John Roos đã nói với Nikkei Asia "Tôi nghĩ
rằng có một số ít các nhà lãnh đạo vượt ra khỏi đất nước của họ. Và tôi
nghĩ Thủ tướng Abe là một trong những nhà lãnh đạo đã bứt phá và trở
thành nhà lãnh đạo thế giới".
Abe có tầm ảnh hưởng toàn cầu trong suốt thời gian cầm quyền. Rất hiếm
có lãnh đạo nào tại vị được lâu năm trong chính trường Nhật Bản. Nhiều
thủ tướng trong 30 năm qua chỉ nắm quyền trong vòng chưa đầy hai năm. Sự
nổi tiếng của Abe ở nước ngoài một phần đến từ khả năng thiết lập mối
quan hệ với một số nhân vật nổi tiếng khó tính, chẳng hạn như Putin và
cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, nhờ tính cách chu đáo của ông.
Nhưng danh tiếng của ông ở nước ngoài đã bị lu mờ phần nào sau chuyến
thăm đền Yasukuni ở Tokyo vào năm 2013, nơi tôn vinh những người chết
trong Thế chiến thứ hai của Nhật Bản, bao gồm cả những tội phạm chiến
tranh bị kết án. Chuyến thăm đã gây ra sự chỉ trích từ Trung Quốc và Hàn
Quốc, và thậm chí cả những lời chỉ trích từ Đại sứ quán Mỹ tại Tokyo.
Mục đích đưa Nhật Bản thoát khỏi chủ nghĩa hòa bình thời hậu chiến của
Abe cũng gây nhiều tranh cãi. Ông đã tìm cách đưa Nhật Bản lên vị thế
bình đẳng hơn với Mỹ bằng cách tăng chi tiêu quốc phòng và thông qua
luật an ninh mang tính bước ngoặt vào năm 2015 cho phép quân đội Nhật
Bản đảm nhận trách nhiệm "phòng thủ tập thể".
Daniel Russel, cựu trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ về Đông Á, các vấn đề Thái
Bình Dương, hiện là phó chủ tịch phụ trách an ninh và ngoại giao quốc tế
tại Viện Chính sách Xã hội Châu Á, cho biết dưới thời Abe Nhật Bản
chuyển từ trọng tâm hoàn toàn hướng nội sang quan hệ đối tác với Hoa Kỳ
nhằm bảo đảm về an ninh và ngăn chặn các hành động gây hấn hoặc quân sự
trong khu vực.
Abenomics: Một chính sách cân bằng
Nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên của Abe, bắt đầu vào năm 2006, rất ngắn, chỉ
kéo dài khoảng một năm. Ở tuổi 52, ông là thủ tướng trẻ nhất thời hậu
chiến, nhưng ông từ chức chưa đầy một năm sau đó do thất bại nặng nề
trong cuộc bầu cử thượng viện năm 2007 và những vấn đề về sức khỏe.
Nhiệm kỳ thứ hai của Abe, bắt đầu vào tháng 12 năm 2012, chứng kiến
ông dẫn dắt LDP giành chiến thắng trong sáu cuộc bầu cử liên tiếp ở hạ
viện và thượng viện. Chính sách Abenomics, nhằm chấm dứt tình trạng giảm
phát kinh niên của Nhật Bản; đã tăng gấp đôi chỉ số chứng khoán Nikkei
trong ba năm và gần như giảm một nửa tỷ lệ thất nghiệp.
Tuy nhiên, ông đã phải đối mặt với những lời chỉ trích vì đã tạo nên bầu
không khí không khoan dung, phá vỡ phong cách xây dựng đồng thuận thông
thường của chính trị Nhật Bản, thường nói xấu và chế giễu các đối thủ
của mình trong quốc hội.
Phong cách chính trị của Abe được đặc trưng bởi sự cân bằng tốt giữa
niềm tin của ông vào chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa thực dụng. Abenomics
là xương sống của chủ nghĩa thực dụng đó, và hiệu quả của nó có thể thấy
được qua những thành công trong các cuộc bầu cử.
Đóng góp quan trọng nhất của Abenomics đối với nền kinh tế Nhật Bản là
tạo việc làm. Trong nhiệm kỳ thủ tướng thứ hai từ năm 2012 đến năm 2020,
lượng việc làm có sẵn đã tăng 4,3 triệu người, tương đương 7%, giảm tỷ
lệ thất nghiệp từ 4,3% xuống 2,2%.
Với sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản kể từ năm
1995 và nhập cư vẫn bị hạn chế chặt chẽ, lao động nữ và người cao tuổi
là nguồn khả dụng duy nhất mà Abe có thể khai thác để đối phó với tình
trạng thiếu lao động kinh niên.
Để thu hút nhiều phụ nữ hơn vào lực lượng lao động, Abe đã khởi động
chương trình "womenomics" của mình vào năm 2013. Mục đích là khuyến
khích phụ nữ làm việc bằng cách tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc trẻ em và mở ra nhiều vị trí trách nhiệm hơn cho các nhân viên nữ.
Khả năng tiếp cận việc làm của phụ nữ đã được cải thiện đáng kể dưới
thời Abe với hơn 3 triệu trong số 4,3 triệu tin tuyển dụng dành cho phụ
nữ. Từ năm 2012 đến năm 2021, tỷ lệ tham gia lao động nữ của Nhật Bản đã
tăng từ 63% lên 73%, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, vượt
qua mức trung bình toàn cầu là 65%.
Tuy nhiên, hơn một nửa số việc làm được tạo ra dưới thời Abenomics là
những công việc được trả lương tương đối thấp, không an toàn và không
thường xuyên. Tiền lương có tăng, nhưng không theo kịp tốc độ gia tăng
chi phí sinh hoạt và thuế.
Abenomics phần lớn cũng thất bại trong việc thu hẹp khoảng cách thu nhập
đang ngày càng tăng. Trọng tâm của chính sách này là đổ nhiều tiền hơn
vào túi các tập đoàn, với hy vọng rằng họ sẽ chia sẻ số tiền đó với công
nhân. Nhưng thay vào đó, các doanh nghiệp đã chọn nắm giữ lợi nhuận và
tích trữ tiền mặt khổng lồ.
Hậu quả là, tỷ lệ nghèo của Nhật Bản hầu như không thay đổi, ở mức 15,7%
vào năm 2019 so với 16,0% của năm 2007 và cao hơn nhiều so với mức trung
bình của khối OECD năm 2019 là 11,2%.
Michael Cucek, phó giáo sư nghiên cứu Châu Á tại Nhật Bản của Đại học
Temple, cho biết “Dưới thời Abe, có hy vọng rằng tiền lương sẽ tăng,
mang lại lợi nhuận cao hơn cho các công ty, nhân viên được trả lương
nhiều hơn và khơi dậy niềm tin của người tiêu dùng. Nhưng điều đó không
bao giờ xảy ra."
Khoảng cách thu nhập theo giới của Nhật Bản ở mức cao nhất trong số các
nước phát triển, với thu nhập trung bình của phụ nữ thấp hơn nam giới
khoảng 26% vào năm 2020. Nhật Bản vẫn đứng thứ 120 trong số 156 quốc gia
về bình đẳng giới.
Giá cả toàn cầu gia tăng hiện nay đã khiến nhiều người phải đánh giá lại
Abenomics. Chương trình này dựa trên việc nới lỏng tiền tệ bất thường,
điều này đã dẫn đến chênh lệch lãi suất giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, đẩy
nhanh sự mất giá của đồng yên. Một số người hiện coi Abenomics như một
di sản thất bại. Các chính sách khác được phe bảo thủ ủng hộ, chẳng hạn
như cải cách cơ cấu, dường như đã không còn được ưa chuộng kể từ khi Abe
từ chức thủ tướng.
Giờ đây, đến lượt Kishida định hướng nền kinh tế với tầm nhìn "chủ nghĩa
tư bản mới" của mình. Trong bài phát biểu chiến thắng trong cuộc bầu cử
vào ngày 11 tháng 7, ông tuyên bố sẽ xây dựng dựa trên di sản của
Abenomics để "tạo ra một nền kinh tế bền vững và bao trùm", bằng cách
tăng cường đầu tư công và tư vào khoa học và đổi mới.
Hợp nhất LDP
Ngoài di sản của Abenomics, dấu ấn lớn nhất của Abe đối với chính trị ở
Nhật Bản là vai trò chủ chốt của ông trong LDP. Ông đã hiểu được tầm
quan trọng của các phe phái của LDP trong thời gian làm thư ký cho cha,
cựu Bộ trưởng Ngoại giao Shintaro Abe, và luôn biết rằng bất kỳ thủ
tướng Nhật Bản nào cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của phe lớn nhất
trong đảng.
Chưa đầy một năm sau khi từ chức thủ tướng vì lý do sức khỏe vào tháng 9
năm 2020, Abe đã tiếp quản vị trí lãnh đạo của phe nội đảng lớn nhất của
LDP, Seiwa Seisaku Kenkyukai, và tiếp tục lên tiếng về cả tình hình
chính trị và chính sách.
Sau khi người kế nhiệm là Thủ tướng Yoshihide Suga, người không để lại
dấu ấn sau một năm cầm quyền, từ chức vào tháng 10 năm 2021, Abe đã công
khai quan điểm của mình khi LDP bước vào cuộc bầu cử lãnh đạo mới.
Ông ủng hộ Sanae Takaichi, một nữ nghị sĩ diều hâu, người lâu năm ủng hộ
Abe. Takaichi không thuộc bất kỳ phe phái nào trong LPD nhưng mục tiêu
của Abe là hợp nhất những người bảo thủ thuộc phe ông, những người ủng
hộ cả trong và ngoài đảng về dưới quyền của Takaichi.
Với sự hậu thuẫn của Abe, Takaichi đã vượt qua Taro Kono, một ứng cử
viên nặng ký khác trong cuộc đua lãnh đạo và cuối cùng về nhì. Takaichi
chỉ bị đánh bại bởi Kishida, thủ tướng đương nhiệm, người đứng đầu phe
lớn thứ tư của LDP.
Tuy nhiên, Takaichi, người đã trở thành chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu
Chính sách của đảng, nhận thấy rất khó để có thể lấp chỗ trống do Abe để
lại để đảm nhận vai trò lãnh đạo của phe bảo thủ. Do đó, cuối cùng Abe
nhận ra rằng ông cần phải có mặt trên chiến tuyến của LDP phải lên tiếng
thẳng thắn hơn, đặc biệt là về vấn đề chi tiêu quốc phòng. Khi Abe trở
lại, ảnh hưởng của Takaichi đối với những người trong phe bảo thủ đã suy
giảm.
Trên thực tế, Abe vẫn là lãnh đạo bảo thủ khi ông không thể đề bạt
Takaichi, người không thuộc phe mình, lên làm người kế nhiệm do phe của
Abe còn có các nhà lập pháp có ảnh hưởng khác như Bộ trưởng Kinh tế,
Thương mại và Công nghiệp Koichi Hagiuda.
Sau khi Abe qua đời, hiện không có lãnh đạo nào đủ sức cuốn hút, đủ tầm
để gắn kết thống nhất các thành viên của phe bảo thủ. Người đứng đầu phe
quan trọng nhất, phe Abe, trong LDP giờ không có người nào được đề cử kế
nhiệm, điều này sẽ làm LPD thay đổi hệ thống chính trị.
Những thách thức thời hậu Abe đối với Kishida
Abe có ảnh hưởng đến mức ngay cả sau khi từ chức thủ tướng, ông vẫn là
một nhân vật được coi trọng và không thể thiếu trong quốc hội.
Nhiều người coi các quyết định bổ nhiệm của Thủ tướng Kishida là một nỗ
lực để giữ Abe và phe của ông ở lại. Kishida đề cử Takaichi, một đồng
minh thân cận của Abe, và Nobuo Kishi, em trai Abe vào các vị trí quan
trọng trong đảng và nội các. Không thể phớt lờ Abe, Kishida được coi là
không có lựa chọn nào khác.
Không có Abe, Kishida có thể tự do hơn trong việc điều hành chính phủ.
Ông không còn bị áp lực, không có Abe và phe Abe, Kishida sẽ có thoải
mái hơn để ra các quyết sách của minh.
Tuy nhiên, việc Abe mất đi cũng khiến Kishida gánh chịu những trách
nhiệm chính trị to lớn. Kishida sẽ không còn có thể sử dụng Abe, người
có ảnh hưởng lớn trong đảng, làm "cái cớ" để theo đuổi các chính sách
gây chia rẽ không chỉ trong LDP mà còn trong xã hội. Đứng đầu trong số
này là sửa đổi hiến pháp của Nhật Bản.
Thế giới đã thay đổi mạnh mẽ với COVID-19 và cuộc xâm lược của Nga vào
Ukraine. Nhiều người lo ngại rằng hiến pháp của Nhật Bản và khuôn khổ
pháp lý hiện tại không còn đủ để chống lại các cuộc tấn công trong không
gian mạng và các lĩnh vực phi truyền thống khác. Điều 9 của hiến pháp từ
bỏ việc sử dụng vũ lực và nói rằng các lực lượng quân sự sẽ "không bao
giờ được duy trì."
Abe đã nêu rõ ý thức hệ mong muốn thay đổi Điều 9 và củng cố an ninh của
Nhật Bản, vào năm 2015, ông đã thúc đẩy luật an ninh toàn diện mới thông
qua quốc hội, cho phép Nhật Bản có quyền "tự vệ tập thể."
Michael Green, Giám đốc điều hành của Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ tại
Đại học Sydney và là cựu giám đốc cấp cao về châu Á tại Hội đồng An ninh
Quốc gia, nói với Nikkei rằng động lực chính của luật an ninh là logic
chiến lược mạnh mẽ của Abe, chứ không phải là hệ tư tưởng của ông liên
quan đến hiến pháp. Nhìn vào sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng
của các hành động quân sự và gây hấn của Trung Quốc, Abe kết luận rằng
Nhật Bản cần củng cố liên minh và tăng cường khả năng răn đe.
Trong suốt 9 tháng nắm quyền, Kishida đã nói rõ rằng ông đồng ý với Abe
về nhu cầu tăng cường an ninh của Nhật Bản, thúc đẩy chính sách ngoại
giao theo chủ nghĩa hiện thực và cam kết tăng gấp đôi chi tiêu quốc
phòng của Nhật Bản.
Nhưng cải cách hiến pháp là một vấn đề gây tranh cãi ở Nhật Bản, dựa
trên bản sắc của chủ nghĩa hòa bình thời hậu chiến của nước này. Nếu còn
Abe, Kishida có thể tận dụng và dựa vào chủ trương mạnh mẽ của Abe về
việc sửa đổi Điều 9. Abe là một lực lượng đoàn kết, và Kishida có thể sử
dụng ông như một lá chắn để trú ẩn khi vấp phải sự chỉ trích từ những
người phản đối việc thay đổi hiến pháp.
Khi lựa chọn đó không còn, những lời chỉ trích đối với chính quyền
Kishida sẽ đến từ mọi phía. Ngoài những đảng đối lập bất mãn, hơn bao
giờ hết, Kishida có thể đối mặt với sự bất mãn của những người bảo thủ
mà lẽ ra Abe sẽ thẳng tay từ chối.
"Cánh hữu đã mất nhà vô địch" khi mất Abe. Liệu điều này có mang lại lợi
thế cho Kishida hay không chúng ta vẫn còn phải chờ xem.
Archivu dịch
Link bài gốc
https://asia.nikkei.com/Spotlight/The-Big-Story/Japan-after-Abe-Political-stability-under-threat
|