Song Chi.
Bàn đến hiểm
họa Trung Quốc, nhiều người cho
rằng thời đại bây giờ có lẽ cũng
khó có chuyện một quốc gia nào
đó ngang nhiên đem quân đánh
chiếm nước khác sau đó công khai
áp đặt sự đô hộ hay cai trị của
mình lên quốc gia đó như thời
xưa, hay thậm chí như thực dân,
đế quốc trước đây. Cùng lắm là
đánh chiếm một phần lãnh thổ của
nước khác, điều mà nước Nga của
Putin đã làm với Crimea của
Ukraine, là ví dụ gần đây nhất.
Vì thế,
chuyện Trung Cộng sẽ đem quân
xâm lược Việt Nam, biến Việt Nam
thành một quận huyện của Trung
Quốc như trong quá khứ là khó có
thể xảy ra. Thế giới chắc chắn
không thể để yên cho một hành
động ngạo ngược như vậy và Trung
Cộng có nhiều thứ để mất nếu
hành động chống lại cả thế giới.
Nhưng liệu
có cần thiết phải phát động một
cuộc chiến tranh tốn hao người
và của khi Bắc Kinh biết rõ rằng
họ có thể nắm gọn được Việt Nam
bằng nhiều cách khác, từ khống
chế về chính trị, quân sự, tạo
ra sự lệ thuộc nặng nề về kinh
tế cho tới gậm nhấm dần dần lãnh
thổ, lãnh hải, điều mà họ đã và
đang tiếp tục tiến hành lâu nay?
Còn đối với
dân tộc Việt Nam, có phải đợi
đến lúc Việt Nam bị đổi tên,
người Việt Nam phải học một thứ
ngôn ngữ khác, và có một thế lực
ngoại bang công khai ngồi đó cai
trị thì mới là mất nước?
Hay trên
thực tế, nước còn mà cũng như
mất? Khi người dân không được
phép quan tâm đến chính trị vì
“mọi chuyện đã có đảng và nhà
nước lo”, không được phép có ý
kiến hay bày tỏ sự bất bình,
phẫn nộ trước mọi hành vi ngang
ngược, xâm phạm nghiêm trọng đến
chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh
thổ Việt Nam của “nước lạ”? Trái
lại, nếu vì bất bình mà lên
tiếng phản đối thì lại bị chính
nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp,
xách nhiễu, tống giam vào tù với
những bản án vô vùng phi lý,
khắc nghiệt.
Khi suốt từ
Nam ra Bắc, đâu đâu cũng thấy sự
hiện diện cách này hay cách khác
của “nước lạ” Trung Quốc? Từ
thực phẩm, hàng hóa đủ loại tràn
vào Việt Nam bằng mọi con đường,
chính thức hay buôn lậu, đe dọa
trực tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của nền sản xuất nội địa;
từ việc các doanh nghiệp lớn nhỏ
của Trung Quốc thắng thầu phần
lớn các công trình trọng điểm
của Việt Nam trong các lĩnh vực
xây dựng, thủy điện, khai thác
khoáng sản… dẫn đến sự có mặt
của hàng trăm, hàng ngàn công
ty, khu công nghiệp và cả những
khu vực toàn người Trung Quốc,
mà ngay cả chính quyền địa
phương cũng không được phép xâm
nhập vào. Truyền hình Việt Nam
từ đài trung ương đến đài địa
phương tràn ngập phim cổ trang,
lịch sử cho tới phim truyện thời
hiện đại của Trung Quốc, các cửa
hàng sách lớn nhỏ tràn ngập sách
truyện dịch từ Trung Quốc…
Khi sự hiện
diện của Trung Quốc không chỉ
bao trùm trong lĩnh vực kinh tế,
một phần văn hóa, mà rõ rệt nhất
là trong lĩnh vực chính trị,
thông qua mối quan hệ không
tương xứng giữa hai đảng, hai
nhà nước Việt-Trung. Các thế hệ
lãnh đạo đảng và nhà nước cộng
sản Việt Nam tiếp nối nhau đều
mặc nhiên chấp nhận tình trạng
bất tương xứng này và ngoan
ngoãn phục tùng Trung Quốc.
Không chỉ nhất cử nhất động học
theo mô hình thể chế xã hội của
Trung Quốc mà còn phải nghe theo
những lời chỉ đạo từ xa, kể cả
“cầm tay chỉ việc” của Bắc Kinh
từ thời chống Pháp, thời cải
cách ruộng đất cho tới bây giờ
cũng không khá hơn. Bàn tay nhám
nhúa của Trung Nam Hải còn thò
sâu vào nội bộ đảng cộng sản
Việt Nam, mua chuộc, thao túng,
gây chia rẽ, kẻ nào thân Tàu thì
có cửa leo cao tiến xa và ngược
lại.
Thì như thế nước còn mà cũng như
mất.
Khi tàu
Trung Quốc ngang nhiên cướp bóc,
đánh chìm tàu, làm bị thương,
bắt giữ người trên các tàu cá
của ngư dân Việt Nam từ bao
nhiêu lâu nay, ngược lại, hàng
ngàn tàu cá và tàu quân sự Trung
Quốc ngang nhiên đi lại trên
vùng biển thuộc chủ quyền của
Việt Nam mà nhà cầm quyền không
hề dám phản ứng mạnh.
Gần đây,
trước thực trạng Trung Quốc ồ ạt
biến các đảo ngầm thành những
hòn đảo nhân tạo và căn cứ quân
sự trong tương lai, tình hình
trở nên hết sức đáng ngại nhưng
quốc hội Việt Nam vẫn chỉ đóng
cửa họp kín về tình hình biển
Đông và không dám đưa ra một
nghị quyết phản đối mạnh mẽ nào.
Trả lời báo chí, ông Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh
Phúc nói rằng“Quốc hội sẽ
tiếp tục theo dõi sát tình hình
Biển Đông và nếu cần thiết sẽ ra
Nghị quyết về vấn đề này tại các
kỳ họp sau”. ("Các kỳ
Quốc hội sau sẽ ra Nghị quyết về
Biển Đông nếu cần thiết",
Infonet).
Người dân tự
hỏi không biết đến bao giờ thì
mới là cần thiết, đợi đến khi
các căn cứ quân sự đã xây xong
và giặc chiếm nốt những hòn đảo
còn lại của quần đảo Trường Sa
hay khi giặc đã vào đến tận Hà
Nội?
Trong tháng
6, Trung Quốc lại đưa giàn khoan
Hải Dương 981 đến vùng biển Việt
Nam, hoạt động tại vùng chồng
lấn ở cửa vịnh Bắc Bộ mà hai
nước đang đàm phán phân chia
ranh giới, nhưng lực lượng cảnh
sát biển Việt Nam chỉ dám theo
dõi, tuyệt không dám “mời” ra
khỏi lãnh hải nói gì đến phản
ứng mạnh hơn.
Thậm chí khi
có cơ hội lên tiếng, chẳng hạn
như tại Đối thoại Shangri-la
2015 tại Singapore, phái đoàn
Việt Nam do ông Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh dẫn đầu lại có
quan điểm “Lần này, Việt Nam
lắng nghe là chính, không phát
biểu”(“Tướng Nguyễn Chí
Vịnh: TQ cần hành xử đúng luật
quốc tế”, VietnamNet), thay
vì nhân dịp này tố cáo trước
quốc tế những hành động xâm phạm
chủ quyền đất nước và đe đọa đến
hòa bình ổn định trong toàn khu
vực biển Đông của Bắc Kinh. Ông
Vịnh lại còn cho rằng: “Càng
căng thẳng thì càng phải độc lập
tự chủ. Càng căng thẳng thì càng
không bao giờ để kéo vào những
liên minh với nước này để chống
nước khác...” (“Thượng
tướng Nguyễn Chí Vịnh: Càng căng
thẳng, càng phải độc lập tự chủ”,
Tuổi Trẻ). Trong khi ai cũng
thấy rõ Việt Nam là nước đã,
đang và sẽ chịu thiệt thòi nhiều
nhất trong việc Trung Cộng bành
trướng trên biển Đông, Việt Nam
cô độc và cần đến sự giúp đỡ của
thế giới như thế nào nếu phải
đương đầu với Trung Quốc.
Thì như thế
có nghĩa, nước còn mà cũng như
mất.
Khi từ các
cấp lãnh đạo cao nhất cho đến
từng người dân Việt Nam chưa
đánh đã mang tâm lý đầu hàng
trước “Trung Quốc nó mạnh thế
đánh làm sao nổi?”, và tâm lý
ngồi chờ. Nhà cầm quyền thì chờ
Philippines đi kiện Trung Quốc
xem tình hình ra sao, chờ các
nước khác lên tiếng giùm, nhất
là chờ Hoa Kỳ có những phản ứng
mạnh mẽ có thể ngăn chặn được
Trung Quốc. Hết chờ các nước
khác can thiệp lại mong chờ hão
Trung Quốc sẽ nể tình mối quan
hệ bao lâu nay giữa hai đảng,
hai nhà nước mà chiếu cố cho,
không xâm lấn hơn nữa.
Còn người
dân thì cũng ngồi chờ cho nhà
nước này tỉnh ngộ mà thoát ra
khỏi mối quan hệ bị lệ thuộc
nặng nề vào Trung Quốc. Thậm chí
có những người ngồi chờ Trung
Quốc nổ ra chiến tranh, dù từ
bên trong hay bên ngoài, khiến
cho chế độ hiện tại của Bắc Kinh
phải sụp đổ, Trung Quốc chuyển
đổi thành một nước dân chủ thì
khi đó Việt Nam và các nước láng
giềng may ra mới được yên ổn v.v
và v.v…
Khi chúng ta
không hành động gì mà chi ngồi
chờ…sung rụng như thế, thì nước
còn mà cũng như mất, và sớm muộn
gì cũng mất thật!
Hay nói cách
khác, cái giang sơn mà từng tấc
đất, ngọn cỏ, dòng sông,
đều thấm máu của hàng triệu
triệu người Việt qua bao nhiêu
cuộc chiến tranh với thiên nhiên
để sinh tồn và những cuộc chiến
tranh ác liệt chống ngoại xâm,
được gìn giữ, bảo vệ và phát
triển qua hàng ngàn năm thành
một quốc gia trải dài từ Nam ra
Bắc, ngày hôm nay, dưới chế độ
cầm quyền của đảng cộng sản, đã
bị "teo tóp", mất mát dần vào
tay ngoại bang và trên thực tế
chỉ còn lại cái vỏ độc lập giả
hiệu bên ngoài mà thôi.