FB Ôsin
12-5-13
Phấn Đấu & Cơ Cấu
Huy Đức
Thay vì bỏ phiếu chuẩn thuận ba ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra,
Trung ương đã đề cử thêm rất nhiều người. Kết quả, sau 3 vòng bỏ
phiếu, hai ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra thất cử.
Chiến thuật làm loãng phiếu bằng cách đưa thêm ứng cử viên từng được
"áp dụng" hồi tháng 1-2009, đánh rớt cơ hội vào Ban bí thư của Tướng
Lê Thế Tiệm. Nhưng không chỉ đơn giản là gạch bỏ Vương Đình Huệ hay
Nguyễn Bá Thanh, lần này, dường như đang có nhiều Trung ương ủy viên
muốn giành lại quyền quyết định (theo điều lệ) của Trung ương thay
vì cam lòng biểu quyết như cơ quan chấp hành của Bộ chính trị.
Trong lịch sử bầu bán của Đảng cộng sản Việt Nam, những người không
được Bộ chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương giới thiệu, khi được
các đại biểu hoặc các ủy viên trung ương khác giới thiệu, đều tự
giác rút lui hoặc được yêu cầu rút lui. Không cần chờ tới Đại hội
hay Hội nghị trung ương, một nhân vật đã được Bộ chính trị, được
tổng bí thư hoặc có thời chỉ cần được Lê Đức Thọ "chấm" là chắc chắn
vào Trung ương, thậm chí vào những vị trí cao hơn trong Đảng.
Dưới thời Tổng bí thư Đỗ Mười, có những câu chuyện làm nhân sự nghe
cứ như giai thoại: Trước Đại hội VIII (1996), ông Đỗ Mười cho gọi
một vị phó thủ tướng tới bảo: "Kỳ này tôi nghỉ anh thấy sao?". Vị
phó thủ tướng, vốn là một trí thức lịch lãm, chân thành hỏi lại: "Ai
sẽ thay anh?". Kết quả, ông bị loại ra khỏi danh sách tái cử. Ông Đỗ
Mười lại cho mời một nhà lý luận bảo thủ tới và khi ông vừa dứt lời
thì nhà lý luận này liền đập tay xuống bàn: "Trời ơi, đất nước đang
như thế này anh nghỉ làm sao được". Kết quả, nhà lý luận giữ được
ghế ủy viên Bộ chính trị.Ngày
19-6-1996, tại Hội nghị Trung ương 12 (Hội nghị trước khi Đại hội
VIII bắt đầu), Tổng bí thư Đỗ Mười đã yêu cầu Trung ương đưa vào
danh sách đề cử ủy viên Bộ chính trị hai nhân vật bị Hội nghị Trung
ương 11 đưa ra và yêu cầu tái cử thêm hai ủy viên Bộ chính trị quá
tuổi, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Bình. Tuy bị ba uỷ viên trung ương
phản ứng, khi ông yêu cầu "giơ tay biểu quyết", đa số Trung ương
phải "chấp hành" ý kiến của ông. Sau Đỗ Mười, không có tổng bí thư
nào có khả năng thô bạo với Trung ương như thế.
Từ Đại hội VI bắt đầu có chuyện ứng cử viên được đề cử bởi Ban chấp
hành Trung ương bị thất cử ở trong đại hội. Hai nhân vật "tạo tiền
lệ" là Tố Hữu (từng được Lê Duẩn chọn kế vị Tổng bí thư) và Hoàng
Tùng, khi ấy đang là Bí thư trung ương Đảng. Năm 2011, Trung ương
cũng từng đánh rớt một nhân vật được Bộ chính trị tái cơ cấu, Hồ Đức
Việt, và Đại hội cũng đã không bầu Phạm Gia Khiêm một người được đưa
vào danh sách chính thức của Trung ương.
Càng về sau, càng có nhiều ứng cử viên "giới thiệu thêm" được đưa
vào danh sách bầu. Nhưng, cho dù danh sách ứng cử viên có đông hơn
thì xác suất thất cử của các ứng cử viên được Bộ chính trị, Trung
ương trình ra là rất thấp.
Ông Nguyễn Phú Trọng là "người của thiểu số" ngay khi bắt đầu trở
thành Tổng bí thư. Ông ủng hộ "chế độ công hữu về tư liệu sản xuất"
trong khi chiều 18-1-2011, 61,70% đại biểu của Đại hội XI đã chọn
định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là "có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất
tiến bộ và phù hợp".
Việc Đại hội không coi "sở hữu công" như là một đặc trưng chủ yếu
của chủ nghĩa xã hội lẽ ra phải có giá trị như một hành động vứt bỏ
vòng kim cô cuối cùng của Marx (căn cứ theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản). Ông Trọng có thể đã có một vị lịch sử khác nếu ông "phục tùng
đa số" như ông tuyên bố khi nhận chức Tổng bí thư, đẩy mạnh giải tư
khu vực kinh tế quốc doanh và trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông
dân. Nhưng, Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ một cách hùng hồn là ông
không có khả năng nhận ra thời cuộc cho chính ông, đừng nói là cho
đất nước.
Từ Hội nghị Trung ương Bốn, ông Nguyễn Phú Trọng rõ ràng đã có nỗ
lực để trở nên không tẻ nhạt như người tiền nhiệm của mình. Chỉnh
đốn Đảng và chống tham nhũng là một lựa chọn khá được lòng dân.
Nhưng, thay vì thừa nhận nguyên nhân tham nhũng là từ "lỗi hệ thống"
để cải cách chính trị theo hướng dân chủ hơn; thay vì để cho Quốc
hội và tư pháp được thực thi các quyền hiến định của mình, ông lại
sử dụng những công cụ hết sức giáo điều trong khi trung ương không
còn một đa số chỉ biết vâng lời như trước nữa.
Việc các cơ quan trung ương được cắt giảm chỉ còn sáu ban, kể từ năm
2006, là kết quả của gần hai thập niên cải cách chính trị theo hướng
"Đảng lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước". Vậy mà tại Hội
nghị Trung ương Năm, ông Trọng lại cho khôi phục Ban Nội chính và
Ban Kinh tế trung ương (một ban chỉ mới được giải tán từ năm 2006).
Sau khi Hội nghị trung ương Sáu đồng ý "cơ cấu" chức ủy viên Bộ
chính trị cho các trưởng ban. Thay vì bầu bổ sung Bộ chính trị
trước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những bước đi "chắc ăn":
Bổ nhiệm Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ làm trưởng ban rồi mới
đưa ra Trung ương bầu bổ sung. Kết quả cả hai đều không đắc cử.
Đây không chỉ là vấn đề tiêu chuẩn cá nhân của ông Huệ hay ông Thanh
mà là "sự nổi loạn" của các ủy viên trung ương. Có lẽ không mấy
trung ương ủy viên không từng mơ tới chiếc ghế trong Bộ chính trị
cao sang, và giờ đây không ít người trong số họ không muốn chỉ ngồi
nhìn những kẻ có tiền qua mặt mình, hoặc không muốn chấp nhận nguyên
lý "mười năm phấn đấu không bằng một lần cơ cấu".
Sau thất bại ở Trung ương Bảy, lẽ ra ông Trọng và Bộ chínhtrị phải
nhận ra trong Đảng đã tự diễn biến, các phương thức chính trị cổ hũ
đã không còn thích hợp với thực tiễn hiện nay. Thời kỳ các lãnh tụ
áp đặt niềm tin cá nhân lên toàn đảng, toàn dân tộc đã qua, ngay
trong nội bộ của hệ thống toàn trị cũng cần phải có những chính trị
gia thật sự.
Thay vì dừng lại để tìm một hướng đột phá, lấy phương thức vận động
tranh cử để làm "công tác cán bộ trong tình hình mới", Trung ương
Bảy vẫn thông qua chiến lược nhân sự cho Đảng tới 2021 và vẫn dựa
trên nguyên tắc "cơ cấu" và "quy hoạch".
Năm 2001, khi Trưởng ban Tổ chức trung ương Nguyễn Văn An được cơ
cấu làm Chủ tịch Quốc hội, tôi đặt vấn đề "tranh cử trong đảng" với
ông. Ông An lúc ấy cho rằng: "Tranh cử không khéo sẽ thành tranh
giành, cục bộ. Hiện giờ trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân
công. Đảng phải làm sao đảm bảo có dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ
được sự thống nhất" (Thời báo Kinh Tế Sài Gòn 28-6-2001). Giờ đây,
ông Nguyễn Văn An cũng phải nhận ra rằng chính "sự thống nhất" nếu
còn thì chỉ để cho một số cá nhân lũng đoạn.
Nếu như tiến trình tranh cử trong đảng diễn ra công khai, thì người
thực sự tài hơn trong đội ngũ hiện tại sẽ vượt lên; đội ngũ kế cận
sẽ tự nó xuất hiện chứ không phải chỉ những kẻ biết làm vừa lòng cha
chú được cơ cấu.
Đặc biệt, nếu tiến trình tranh cử bắt đầu nhiều tháng trước các dịp
bầu bán, thì không cần "Nghị quyết trung ương Bốn", các ứng cử viên
sẽ giúp Đảng phát hiện tài sản nổi, tài sản chìm, bồ nhí, con
rơi...Giúp dân chúng hiểu được kẻ nào đã ban hành những chính sách
hại dân, hại nước. Chính sự "rạn nứt" do tranh cử sẽ tạo ra một tiền
đề mới cho cải cách chính trị.
Độc tài, toàn trị thì luôn đối lập với dân chủ. Tuy nhiên trong điều
kiện Đảng vẫn cứ một mình cầm quyền và dân chưa biết làm thế nào để
thay đổi tương lai chính trị của mình thì áp dụng một số phương thức
dân chủ trong đảng cũng giảm được cho nước, cho dân phần nào tai
họa.
|