Bảo tồn Đồng bằng sông Cửu Long?
Quách Hạo Nhiên
1.
Không biết trân trọng quà của tạo hóa
Trong cái nhìn của riêng tôi,
về mặt tự nhiên, Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất rất đặc biệt. Vì hiếm nơi đâu
trên quả đất này có một vùng đất vừa được bồi đắp bởi phù sa với vô số
sông ngòi chằng chịt vừa có núi non bao quanh che chắn (như vùng Bảy Núi
– Châu Đốc, An Giang), lại kề bên biển cả quanh năm vỗ về (Trà Vinh,
Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…). ĐBSCL vì thế, có thể xem như món quà quý
giá mà tạo hóa đã ban cho người Việt. Nhưng món quà này, thời gian qua
chúng ta không những không biết trân trọng, giữ gìn mà còn tiêu xài rất
hoang phí thậm chí là xâm hại nó. Hậu quả là giờ đây ĐBSCL đang đứng
trước nguy cơ tan rã, chưa kịp phát triển đã lụi tàn. Và người dân nơi
đây đương nhiên là những người phải gánh chịu hậu quả trước nhất. Câu
nói cửa miệng “Đi Bình Dương bán
nước tương” đang ngày một trở nên phổ biến trong suy nghĩ của người
dân nơi đây là một minh chứng rất cụ thể cho vấn đề này. Còn gì tệ hại
và xót xa hơn khi những cư dân của vùng đất trù phú và giàu có được mệnh
danh là “thủ phủ trái cây” hay “vựa lương thực” của cả nước giờ đây phải
tay xách nách mang, bỏ xứ, ly hương để đi tìm kế sinh nhai?
2.
Từ bàn hội thảo đến các cuộc “giải cứu” ngoài đồng ruộng, ao cá, vuông
tôm
Những điều tôi vừa nói ở trên hẳn nhiều người đã nghe, đã biết và đã
thấy nhất là với
các nhà quản lý,
các chuyên gia, các nhà khoa học “hàng đầu” về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Tôi không có thời gian để thống kê đã có bao nhiêu cuộc hội
nghị, hội thảo lớn nhỏ được tổ chức từ Trung ương đến địa phương cũng
như các công trình khoa học, các đề án, dự án có liên quan đến việc đề
xuất ý tưởng và giải pháp nhằm “giải cứu ĐBSCL” trong khoảng 10 trở lại
đây nhưng tôi biết chắc tình hình ĐBSCL đang ngày một biến chuyển xấu
hơn. Ví như, gần đây nhất là
“Hội nghị Diên Hồng cho ĐBSCL”
diễn ra trong hai ngày 26, 27/09/2017 tại thành phố Cần Thơ với hơn 500
đại biểu trong và ngoài nước tham dự. Ngay sau Hội nghị ấy là bản Nghị
quyết
số 120/NQ-CP về “Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng
với biến đổi khí hậu”
được việc Thủ tưởng Chính phủ đã ký
ban hành
ngày 17/11/2017. Nhưng cũng chỉ một
năm sau đó,
người ta lại tiếp tục tổ chức
Hội thảo
với tên gọi
"Một năm thực hiện
Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu".
Thật thảm thương thay, kết luận của lần hội thảo này hóa ra những vấn đề
đặt ra trong bản Nghị quyết một năm trước vẫn chỉ
“nằm trên giấy”!? Trong khi
đó đời sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) của người dân thì vẫn
trong cái vòng luẩn quẩn “đất giàu người nghèo” và những cuộc “giải cứu”
nông sản, thủy sản vẫn cứ đến hẹn lại lên.
Là người sinh ra và lớn lên tại vùng đất này, tôi hoàn toàn thấu hiểu và
cảm thông cho nỗi nhọc nhằn, vất vả của người dân quê tôi nhất là vào
những dịp thu hoạch nông sản nhưng không bán được phải đổ bỏ hay chất
đống chờ sự “giải cứu” từ các nhà hảo tâm mà chúng ta đã chứng kiến.
Đặc biệt, phải nói thật là mỗi khi nghe các “chuyên gia hàng đầu về nông
nghiệp” ở Việt Nam trình bày các giải pháp xây dựng và phát triển vùng
ĐBSCL có không ít quan điểm rất khó thuyết phục được tôi. Vì là “người
trong cuộc” tận mắt chứng kiến và trải nghiệm nên với tôi có không ít
giải pháp chỉ có ý nghĩa thuần túy về phương diện lý thuyết mà thôi. Hay
nói khác đi, cái hạn chế lớn nhất của các chuyên gia hiện nay trong khi
đề ra các ý tưởng và giải pháp là sự thiếu hụt cái nền tảng rất quan
trọng nhất là về phương lịch sử
và văn hóa vùng ĐBSCL. Thế nên, dù có rất nhiều giải pháp đã được đề
xuất, bàn thảo nhưng xem ra cái khoảng cách từ bàn hội thảo đến thực
tiễn cuộc sống của người dân nơi đây cô cùng xa xăm dịu vợi.
Qua quan sát và theo dõi, tôi biết hiện có một quan điểm đang dần trở
nên phổ biến, lặp đi lặp lại nhiều lần trong các cuộc hội thảo về ĐBSCL
đó là: có không ít người cho rằng“người
dân ĐBSCL không thể giàu là do trồng lúa và khuyên họ cần thay đổi tư
duy trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì mới khá lên
được”. Tôi cho rằng đây quan điểm này rất chủ quan, chỉ nói lấy được
mà chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo.
Thứ
nhất,
khi bàn về chuyện người dân ĐBSCL lâu nay
“trồng lúa nhiều nhưng vẫn không
giàu” thì cần phải nói thẳng cái lỗi này phần lớn là do các cơ quan
quản lý Nhà nước về nông nghiệp và lượng thực. Thế nên, tư duy đúng
trong chuyện này là nếu người nông dân làm lúa không giàu thì việc đầu
tiên cần làm là Nhà nước phải thay đổi (tư duy và cung cách quản lý) để
người dân giàu lên chứ không phải kêu họ bỏ lúa đi không trồng nữa.
Thứ
hai,
thực tế nhiều người dân trồng lúa ở ĐBSCL thừa biết họ đã và đang không
giàu vì cây lúa nhưng đa phần họ cũng không hoàn toàn an tâm khi chuyển
sang trồng mía, xoài, sầu riêng, mít Thái, dưa hấu hay nuôi tôm, nuôi cá
ba sa như gợi ý và khuyến cáo của các chuyên gia. Vì sao? Vì đâu phải
vùng nào cũng trồng cây và nuôi cá, nuôi tôm được? Hơn nữa chi phí đầu
tư (con giống, kỹ thuật, thời gian chăm sóc và thu hoạch kéo dài…) và
nhất là “đầu ra” sản phẩm vẫn là một sự bấp bênh, mơ hồ (vì nhìn chung
hiện nay tất cả gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường tiêu thụ
Trung Quốc) và đâu phải người trồng lúa nào cũng rành kỹ thuật nuôi cá,
nuôi tôm…
Một cách cụ thể hơn, chúng ta hãy thử làm phép tính và so sánh: hiện nay
do dân số ngày một tăng, bình quân mỗi hộ nông dân ở ĐBSCL sở hữu vài ba
công ruộng, nếu trồng lúa thì một năm ít nhất cũng thu hoạch được 2 vụ.
Và dù không giàu nhưng nếu bắt họ phải chuyển sang trồng cây ăn quả thì
hãy hình dung xem với chừng ấy diện tích canh tác ấy họ sẽ trồng được
bao nhiêu gốc xoài, sầu riêng, hay mít Thái với khoảng thời gian kể từ
khi xuống giống đến lúc thu hoạch trung bình từ 2 đến 3 năm. Trong 2, 3
năm này thì lấy gì để ăn và đầu tư cho con cái học hành? Còn đào ao nuôi
cá ba sa hay nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cua biển ư? Trên thực tế việc
này khó khăn hơn rất nhiều vì những yêu cầu về kỹ thuật chăm sóc và chi
phí đầu tư rất lớn. Theo tôi biết đã có không ít người nông nghe theo
lời khyên của các chuyên gia “thay đổi cơ cấu cầy trồng” hay xen canh
“một vụ lúa, một vụ tôm” trong một năm giờ đã phá sản, lâm vào cảnh nợ
nần dẫn đến gia đình ly tán, vợ chồng con cái mỗi người một nơi tìm kế
mưu sinh…
Thứ
ba,
xã hội hiện đại, mọi việc đều phải được chuyên môn hóa, mỗi cá nhân chỉ
cần làm tốt phần việc mà mình đã được xã hội phân công. Người nông dân
canh tác trên đồng ruộng, vườn cây, ao cá đã vất vả rồi thì sao lại bắt
họ phải chạy đi tìm thị trường để tiêu thụ? Đồng ý rằng hạn chế lớn nhất
của nông dân hiện nay là sự bảo thủ, tầm nhìn ngắn hạn, chỉ thấy cái lợi
trước mắt…nhưng hãy nghĩ xem cho đến tận bây giờ toàn vùng ĐBSCL vẫn
không có một kho dự trữ và bảo quản hay sơ chế nông sản sau thu hoạch
đúng nghĩa thì là lỗi của ai? Hay như việc nhiều người dân chỉ biết chạy
theo số lượng đã không tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật vô tội vạ nên không đảm bảo chất lượng đầu ra của
sản phẩm (để có thể xâm nhập vào các thị trường khó tính ngoài Trung
Quốc) thì suy cho cùng lỗi này cũng không nên đổ hết lên đầu họ. Các cơ
quan quản lý Nhà nước như Bộ công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Tài nguyên và môi trường… hãy nghiêm túc tự vấn lại xem có
phải những chủ trương chính sách của mình đưa ra xung quanh vấn đề này
đang tồn tại nhiều bất cập và không hợp lý hay thậm chí là bị chi phối
bởi các “lợi ích nhóm” không?
Trao đổi những vấn đề trên đây, tôi hoàn toàn không có ý phủ nhận những
kiến nghị hay giải pháp của các chuyên gia mà muốn qua đây gợi mở một
góc nhìn, một cách tiếp cận khác để tất cả cùng tham khảo. Hay ít ra để
tất cả chúng ta khi trao đổi thảo luận về những giải pháp nhằm phát
triển ĐBSCL nên có cái nhìn thực tế và gần gũi hơn với nhận thức, suy
nghĩ và điều kiện của người dân nơi đây. Và như tôi đã nói ở trên, các
giải pháp đưa ra nhất định phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn về
lịch sử và văn hóa của con
người nơi đây.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước phải có tầm nhìn để không phải vô
tình hay cố ý biến người nông dân trở thành công cụ để kiếm tiền cho bọn
gian thương và những kẻ cơ hội chính trị, đầu cơ và “tham nhũng chính
sách”, dự án... Có như thế thì may ra Nghị quyết của Chính phủ mới có cơ
hội “đi vào cuộc sống” và về lâu dài những cuộc bồng bế đi
“Bình Dương bán nước tương”
của người dân vùng ĐBSCL không còn tấp nập và ngậm ngùi, xót xa như hiện
nay.
3.
Thay lời kết
Đến hẹn lại lên, theo chu kỳ trong năm, ĐBSCL hiện tại đang vào mùa khô
hạn và xâm ngập mặn. Theo phân tích và lý giải của các nhà khoa học
trong nước và thế giới thì việc nhiều con đập thủy điện được xây dựng
trên thượng nguồn sông Mê Kông dọc theo lãnh thổ các quốc gia láng giềng
(nhiều nhất là Trung Quốc) cùng những tác động của vấn đề biến đổi khí
hậu toàn cầu là hai nguyên nhân chính gây ra vấn nạn trên ở ĐBSCL. Nếu
như biến đổi khí hậu thuộc về “thiên tai’ thì các đập thủy điện ngăn
dòng chảy ở thượng nguồn sông Mê Kông là do con người gây ra. Cả hai vấn
đề này, theo tôi Việt Nam giờ đây rất khó mà tác động và thay đổi được.
Thiên tai đã đến thì phải chịu còn những cái đập thủy điện ở thượng
nguồn sông Mê Kông nhất là trên đất Trung Quốc vốn còn là cái bẫy, cái
gọng kìm mà họ cố tình làm ra để khống chế Việt Nam.
Xét trong bối cảnh và tình hình như vậy, có thể nói muốn xây dựng và
phát triển bền vững vùng ĐBSCL thì điều căn cơ và quan trọng trước hết
là ta phải tự cứu ta. Nhưng làm sao cứu? Cứu bằng cách nào? Theo tôi,
hiện tại không còn cách nào khác là phải tìm về với lịch sử, văn hóa của
cha ông trong suốt hành trình 300 năm khai hoang lập địa để học tập cách
hòa mình chung sống cùng
thiên nhiên, trời đất…
Nên
nhớ rằng ĐBSCL đã từng là vùng đất “ma thiêng nước độc”, “muỗi kêu như
sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh” hay “dưới sông sấu lội trên bờ cọp
um”…Hơn nữa, “Chúa đóng cửa này
sẽ mở cửa khác cho con”!
Trong
cái nhìn như thế, tôi cho rằng đã đến lúc cần thay đổi nhận thức và tư
duy về mọi vấn đề có liên quan đến ĐBSCL. Cụ thể là, thay vì bàn về các
ý tưởng và giải pháp để “phát triển” ĐBSCL chi bằng hãy đề ra ý tưởng và
giải pháp hướng đến việc “bảo tồn” và gìn giữ vùng đất này. Vì “bảo tồn”
nhìn ở giác độ văn hóa cũng bao hàm trong đó sự “phát triển” rồi. Đặc
biệt, khi chúng ta xuất phát từ tâm thế “bảo tồn” và gìn giữ thì sẽ
tránh được những giải pháp tuy hiện đại, mang lại hiệu quả kinh tế nhất
thời nhưng lại vô tình xâm hại và phá vỡ toàn bộ cấu trúc và hệ sinh
thái rất đặc trưng, đặc thù của vùng đất này. Điều đó cũng có nghĩa sẽ
làm cho nguy cơ “tan rã” ĐBSCL diễn ra nhanh hơn.
Hãy thử nghĩ xem, nguồn nước ngọt ở ĐBSCL hiện nay không những đang
thiếu hụt mà còn bị ô nhiễm thì sự hiện diện của một nhà máy sản xuất
giấy như Lee & Man – Hậu Giang (chẳng liên quan gì đến kinh tế nông
nghiệp) ngay bên dòng sông Hậu ngày đêm xả thảy ra con sông này thì có
thể xem là giải pháp nhằm xây dựng và phát triển bền vững ĐBSCL không?
Tóm lại, một vùng đất vốn trù phú giờ đây đang đứng trước nguy mất đi
thì tại sao chúng ta không lo, không nghĩ đến chuyện gìn giữ và bảo tồn?
Đương nhiên để ý tưởng “bảo tồn ĐBSCL” trở thành hiện thực thì rất cần
một tầm nhìn và “quyết tâm chính trị” và dĩ nhiên là vai trò của các nhà
khoa học phải được tiếp tục phát huy nhưng (như đã nói ở trên), tất cả
phải trên cơ sở về một tầm nhìn, chiều sâu và “nội lực văn hóa”.
CT,
28/2/2020
Q.H.N
|