LUẬT KHOA
Rừng ngày càng ít, sân golf ngày càng nhiều: Ai được lợi?
Diện tích rừng tự nhiên đang suy giảm, số lượng sân golf thì
vẫn không ngừng tăng lên.
TRỌNG HIỆP Việc
chính phủ phê
duyệt dự án đầu tư sân golf Đak Đoa (Gia Lai) thời gian qua đã khiến
dư luận dậy sóng. Điểm mấu chốt là quá trình triển khai dự án này bao
gồm việc “chuyển đổi mục đích sử dụng” hơn 174 hecta đất rừng, trong đó
có hơn 150 hecta đất rừng thông gần 50 tuổi. Để so sánh, diện tích đó
bằng 10
lần diện tích của Thảo cầm viên Sài Gòn.
“Chuyển đổi mục đích sử dụng” là một cách nói tránh. Nói thẳng ra, hơn
174 ha đất rừng sẽ không còn. Nhà đầu tư FLC sẽ biến nó thành một đại
sân golf tiêu chuẩn quốc tế kết hợp biệt thự nghỉ dưỡng sang trọng. Mà
đó mới chỉ là giai đoạn 1. Sang giai đoạn 2, họ sẽ chiếm
trọn 500 ha rừng thông.
Các cuộc thảo luận về
việc nên hay không nên biến khu rừng thông cổ thụ thành sân golf đã được
bàn thảo trước đó gần nửa năm. Trong đó, dự án này đã dấy lên nhiều lo
ngại về tác động đến môi trường của việc xây dựng sân golf. Các
rủi ro có thể kể đến bao gồm việc làm mất đi thảm thực vật rừng vốn đã
ổn định gần 50 năm, gây ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái tự nhiên, hay
đe dọa đến nguồn nước sinh hoạt của người dân địa phương. Dự
án xóa sổ khu rừng thông cổ thụ được bật đèn xanh chỉ vài ngày trước khi
thủ tướng chính phủ phê
duyệt đề án trồng một tỷ cây xanh tại Việt Nam.
Chính phủ một bên cho phép phá rừng, bên kia hô hào trồng thêm rừng mới.
Trong khi đó, theo số liệu năm 2020, độ
che phủ rừng của Việt Nam bình quân đạt 42%, thấp hơn so với các
nước trong khu vực như Lào (58%) hay Campuchia (47%). Mặc dù con số này
vẫn đang dần tăng lên, nhưng chủ yếu là nhờ quá trình mở rộng diện tích
rừng trồng, trong khi chất
lượng rừng tự nhiên của Việt Nam thì lại giảm. Trong tổng số 10,3
triệu hecta diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam, chỉ
có 15% là rừng giàu về trữ lượng, 50% là rừng trung bình, còn lại
35% là rừng nghèo kiệt.
Cơn sốt sân golf
Theo ước
tính của ông Phạm Thành Trí, phó chủ tịch Hiệp hội Du lịch golf Việt
Nam, cứ trung bình hai tuần thì lại có một sân golf được cấp phép. Với
tốc độ xây dựng như hiện tại, mỗi năm Việt Nam sẽ có thêm từ 50 đến 100
sân golf. Còn
trong một
phát biểu vào năm 2018, chủ tịch tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết cho
biết việc đầu tư xây dựng sân golf là một trong những chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp này. Cụ thể hơn, trong mục tiêu đến năm 2022, FLC
dự kiến sẽ sở hữu khoảng 100 sân golf trên khắp 63 tỉnh, thành của cả
nước. Ông Quyết lạc quan cho rằng, “mỗi tỉnh sẽ có ít nhất một sân golf,
tỉnh nhiều sẽ có hàng chục sân golf”. Chưa
hết, bạn có biết Việt Nam có hẳn một chiến lược phát triển sân golf? Vào
năm 2009, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
ký quyết định phê duyệt quy hoạch sân golf tại Việt Nam cho đến năm
2020. Theo nội dung của kế hoạch, dự kiến sẽ có 89 sân golf được xây
dựng trên khắp cả nước cho đến 2020, trong đó có 19 sân đã đi vào hoạt
động (vào thời điểm trên). Mục tiêu của định hướng quy hoạch nhằm “góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế, du lịch, thể thao, dịch vụ của các địa
phương”; đồng thời “tạo việc làm và tăng thu ngân sách nhà nước”. Tuy vậy, triển vọng kinh
tế của những dự án đầu tư này không cho thấy nhiều tín hiệu khả quan.
Trên thực tế, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách quy hoạch thì nhiều
sân golf đã mang lại doanh
thu không như kỳ vọng.
Theo khảo
sát của Hiệp hội Golf Việt Nam (VGA), chi phí đầu tư cho một lỗ golf
tiêu tốn ít nhất một triệu USD. Do đó, một sân golf 18 lỗ tại Việt Nam
trung bình sẽ cần ít nhất 30.000 lượt người chơi trong một năm nếu muốn
thu hồi lại vốn, và cần 33.000 lượt người chơi nếu muốn có lợi nhuận
10%. Vào năm 2013, chỉ có khoảng 10 trong tổng số 32 sân golf đang hoạt
động tại Việt Nam là kinh doanh hòa vốn hoặc thu về được một ít lãi.
Những dự án đô thị sân golf tích
hợp dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng hiện đang được nhiều tỉnh, thành ở Việt
Nam chọn làm hướng phát triển chính. Tuy nhiên, việc phát triển tràn lan
những dự án kiểu này đang mang lại ảnh
hưởng đến môi trường và gây lãng phí tài nguyên đất.
Muôn vàn sai phạm Dự
án sân golf của FLC tại Đak Đoa không
phải là lần đầu tiên tập đoàn này xin chuyển đổi mục đích sử dụng
của đất rừng để triển khai dự án. Nhiều công trình xây dựng sân golf
khác của FLC trên khắp đất nước cũng đang biến rừng thành các khu nghỉ
dưỡng hạng sang. Có thể kể đến như quần thể FLC Hạ Long lấy 100 ha đất
rừng, FLC Quảng Bình vẫn đang thu
hồi đất rừng phòng hộ ven biển cho dự án có tổng vốn đầu tư gần 20
nghìn tỷ, hay FLC Sầm Sơn với những sai phạm về chiếm dụng đất trái
phép. Vào
năm 2014, đại dự án sân golf và resort nghỉ dưỡng của FLC tại Sầm Sơn,
Thanh Hóa đã xóa
sổ hàng chục hecta đất rừng phòng hộ, cũng như chiếm dụng hơn 15
hecta đất rừng và đất ven biển nằm ngoài quy hoạch.
Theo ước tính sơ bộ trên các trích lục bản đồ
giao đất, tổng diện tích rừng phòng
hộ mà chính quyền tỉnh Thanh Hóa chuyển giao cho FLC là trên 43 hecta,
trong khi Điều 58 của Luật Đất đai năm 2013 quy
định rằng việc chuyển mục đích sử dụng từ 20 hecta đất rừng phòng
hộ, đất rừng đặc dụng trở lên phải có văn bản chấp thuận của thủ tướng
chính phủ.
Trước đó, trong quyết định phê duyệt quy hoạch sân golf, tỉnh Thanh Hóa
đã yêu cầu FLC phối hợp với chính quyền địa phương trong việc “nghiên
cứu, tính toán kỹ việc giữ chiều dày lớp rừng phòng hộ ven biển”, FLC
sau đó cũng đã cam kết thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên theo ghi nhận
thực tế của phóng viên báo
Người Lao Động, hầu như tất cả diện tích rừng phòng hộ phía giáp
biển đều đã bị FLC xóa sổ. Hàng phi lao chắn sóng từng chạy dọc theo bãi
biển Sầm Sơn, theo người dân địa phương, chỉ còn sót lại một số cây ở
cuối dự án sân golf.
Không khó để tìm được những thông tin về các sai phạm tương tự trong
việc thực hiện các dự án xây dựng sân golf. Đầu
năm nay, chính quyền tỉnh Hoà Bình đã
tiến hành thu hồi hơn 60 hecta trong tổng số 140 hecta đất trồng
rừng được phê duyệt để xây dựng sân golf không nằm trong quy hoạch. Theo
đó, tỉnh này đã chuyển giao hơn 140 hecta đất lâm nghiệp cho doanh
nghiệp để làm sân golf, bên cạnh các dự án xây dựng viện dưỡng lão, công
viên tâm linh và khu nhà ở sinh thái trên hơn 66 hecta đất thuộc quản lý
của Công ty Lâm nghiệp Hoà Bình. Một
số nhà đầu tư đã xin làm dự án sân golf ở những khu vực đắc địa như sát
biển, ven sông, hay gần rừng tự nhiên với mục đích chiếm hữu nhiều quỹ
đất, bao gồm đất nông nghiệp và đất rừng. Trên thực tế, các doanh nghiệp
này lại tận
dụng những khu phức hợp sân golf để xây dựng bất động sản và kinh
doanh dịch vụ, hoặc tự
ý mua bán và chuyển nhượng lại cho những nhà đầu tư thứ cấp mà không
theo quy định của pháp luật.
Những tác động về
môi trường của quá trình xây dựng và bảo quản sân golf thì đã được cảnh
báo từ lâu.
Trong một báo
cáo về các tác động của hoạt động du lịch đến môi trường, Dự án môi
trường Liên Hợp Quốc (United Nations Environment Programme) đã đưa ra
một số cảnh báo của việc xây dựng sân golf. Vấn đề nổi bật nhất được nêu
lên trong báo cáo này là “làm cạn kiệt nguồn nước sạch dự trữ” và dẫn
đến tình trạng thiếu nước “ở những khu vực có nguồn tài nguyên hạn chế”. Thêm
nữa, các sân golf cũng sử dụng nhiều loại phân bón hóa học, thuốc diệt
cỏ và thuốc diệt côn trùng để duy trì cảnh quan nhân tạo. Các loại hóa
chất này một khi bị lạm dụng quá mức thì có thể ngấm
vào lòng đất và làm ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt (surface water),
từ đó có nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sinh sống tại
khu vực xung quanh.
Không chỉ xảy ra ở Việt Nam, cơn sốt đầu tư ồ ạt cho các dự án sân golf
cũng đã
từng diễn ra tại Hoa Kỳ trong giai đoạn từ năm 1998 đến 2006. Tuy nhiên, lượng cung
vượt cầu, kinh tế suy thoái, cũng như việc môn thể thao này đang mất dần
sức hấp dẫn đối với thế hệ millennials (những người sinh trong khoảng
đầu thập niên 1980 đến đầu thập niên 2000) là những lý do đang khiến
nhiều sân golf tại Hoa Kỳ buộc phải ngừng hoạt động. Trong thập niên vừa
qua, có khoảng 800 sân golf tại quốc gia này đã
đóng cửa.
Theo số
liệu thống kê của Hiệp hội Công nghiệp Thể thao và Sức khỏe (Sports
& Fitness Industry Association), bắt đầu từ năm 2009, tỷ lệ tham gia
chơi golf của nhóm người thuộc độ tuổi từ 18 đến 24 tại Hoa Kỳ đã giảm
khoảng 13%, trong khi tỷ lệ tham gia những môn thể thao năng động hơn
như chạy bộ tăng đến 29%. Một số ý
kiến cho rằng, việc tiêu tốn nhiều thời gian, chi phí đắt đỏ và
không còn hợp thời là những lý do chính giải thích vì sao golf không còn
hấp dẫn đối với những người trẻ.
*** Nhìn
lại tổng quan bức tranh quy hoạch sân golf của Việt Nam, có lẽ hai câu
hỏi mà người viết, hay bất cứ ai cũng sẽ đặt ra đối với các dự án này là
“tại sao?” và “để làm gì?” Tại sao lại ồ ạt xây dựng sân golf bất
chấp các rủi ro về môi trường và những tiếng nói phản đối? Và thi công
những dự án này để làm gì khi lợi ích kinh tế chưa chắc đã được
đảm bảo, sai phạm thì đầy rẫy, còn hậu quả đối với đời sống của người
dân địa phương là nhãn tiền? Liệu
chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ những mảnh rừng hiếm hoi còn sót lại cho
thế hệ tương lai, hay sẽ nhắm mắt đánh đổi môi trường để lấy những công
trình xa hoa trước mắt? |