How China Is Ruled Why It's Getting Harder for Beijing to Govern Foreign Affairs Jan/Feb 2014 Bản dịch của Lee Hoàn Trung Quốc
được cai trị cách nào David M. Lampton
Trung Quốc đã trải qua ba cuộc cách mạng trong thế kỷ XX. Đầu tiên, năm 1911 với sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh kéo theo đó là sự sụp đổ của hệ thống cai trị phong kiến lâu đời. Sau các xung đột kéo dài là cuộc cách mạng thứ hai, năm 1949 Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản chiến thắng trong nội chiến, lập nên nước CHND Trung Hoa; quyền lực tối thượng của Mao chỉ kết thúc khi ông ta chết vào năm 1976. Cuộc cách mạng thứ ba đang diễn ra, và cho đến nay, với kết quả tích cực hơn nhiều. Bắt đầu vào giữa năm 1977 với sự trỗi dậy của Đặng Tiểu Bình, người khởi động một kỷ nguyên cải cách chưa từng có, kéo dài nhiều tập kỷ và làm chuyển đổi nền kinh tế gia công-manh mún của Trung Quốc thành một nền kinh tế hàng đầu thế giới, giúp hàng trăm triệu người Trung Quốc thoát khỏi đói nghèo và mở đầu đợt di dân ồ ạt đến thành phố. Cuộc cách mạng này được tiếp nối qua các nhiệm kỳ của những lãnh đạo như Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình. Cải cách mở cửa của Đặng, hẳn nhiên, chỉ có tính cách mạng theo một nghĩa nào dó, do trong suốt thời gian qua Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn duy trì độc quyền chính trị. Có vẻ Trung Quốc đang trải nghiệm một cuộc cải cách kinh tế mà không có cải cách chính trị trong những năm qua kể từ 1977. Sự thật là, một cuộc cải cách chính trị đã "diễn ra lặng lẽ và ngoài tầm quan sát của nhiều người” ! Chính quyền trung ương Trung Quốc hoạt động ngày nay trong môi trường cơ bản rất khác biệt với những gì đã có trong những năm đầu cải cách của Đặng, ít nhất trong ba nội dung. Một là, vai trò cá nhân của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã dần yếu hơn trong tập thể lãnh đạo cũng như đối với toàn xã hội. Hai là, xã hội Trung Quốc với nền kinh tế tập trung và bộ máy quan liêu đang dần bị thủ tiêu, làm gia tăng các nhu cầu buộc giới lãnh đạo phải đáp ứng, hoặc ít nhất phải điều chỉnh nền quản trị quốc gia. Ba là, giới lãnh đạo Trung Quốc, hơn bao giờ hết, hiện phải lãnh đạo quốc gia có dân số với nhiều nguồn lực, về tiền bạc, tài năng và thông tin hơn trước. Với những lý do trên, quản trị Trung Quốc đã trở nên khó khăn hơn thời ông Đặng. Đối phó với những thay đổi, Bắc Kinh đã tích hợp ý kiến công luận vào hoạt động hoạch định chính sách quốc gia, trong khi vẫn giữ các cấu trúc chính trị cơ bản, có sẵn. Sẽ là sai lầm nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng có thể duy trì ổn định chính trị và xã hội một cách vô thời hạn mà không cải cách đáng kể hệ thống quản trị quốc gia. Một Trung Quốc đặc trưng bởi một nhà nước yếu hơn và một xã hội dân sự mạnh mẽ hơn đòi hỏi một cơ cấu chính trị khác biệt hơn nhiều. Nó đòi hỏi một cam kết mạnh mẽ hơn với nền pháp trị, với các cơ chế đáng tin cậy hơn, chẳng hạn như tòa án và cơ quan lập pháp, để giải quyết các xung đột, dung hòa các lợi ích khác nhau, cũng như việc phân phối các nguồn lực trong xã hội. Nó cũng cần một Chính phủ hoạt động tốt hơn, minh bạch và có trách nhiệm hơn. Thiếu đi các điều kiện để phát triển như vậy, trong tương lai Trung Quốc ắt gặp các bất ổn chính trị nhiều hơn so với chính nó trong hơn bốn thập niên vừa qua. Trong hoàn cảnh đang vươn ra thế giới, các bất ổn chính trị tại Trung Quốc càng dễ được cảm nhận hơn trên qui mô khu vực và toàn cầu. Cải cách trước đây của Trung Quốc đã tạo ra những hoàn cảnh mới mà các nhà lãnh đạo của nó buộc phải nhanh chóng thích nghi. Cải cách cũng giống như đi xe đạp, hoặc là đạp xe để đi tiếp hoặc bị ngã nhào ! KHÔNG PHẢI MỌI LÃNH ĐẠO ĐỀU GIỐNG NHAU Nhà xã hội học người Đức Max Weber cho rằng, một Chính phủ có được quyền lực nhờ ba nguồn: truyền thống; những phẩm chất và uy tín của cá nhân nhà lãnh đạo; và các chuẩn mực được pháp định và hiến định. Chính phủ Trung Quốc, trong các giai đoạn của cải cách, đã chuyển từ hai tính chính đáng đầu tiên và đang hướng tới một cái gì đó giống như tính chính đáng thứ ba. Giống như Mao, Đặng Tiểu Bình đã nắm quyền nhờ có sự kết hợp của quyền lực truyền thống và uy tín cá nhân. Nhưng các nhà lãnh đạo kế tiếp lại có quyền lực theo những cách rất khác nhau. Giang Trạch Dân (cai trị 1989-2002) và Hồ Cẩm Đào (cầm quyền 2002-2012), ở những mức độ khác nhau, đều được chính Đặng chỉ định làm lãnh đạo. Tập Cận Bình vào vị trí đứng đầu, năm 2012, nhờ quá trình lựa chọn chính trị tập thể trong ĐCSTQ. Cùng với thời gian, một Bộ tiêu chuẩn tập hợp các tiêu chí về lựa chọn lãnh đạo đã hình thành, bao gồm cả giới hạn về nhiệm kỳ và tuổi tác, các biện pháp thực hiện, kết quả thăm dò ý kiến trong nội bộ đảng. Mặc dù quan trọng, các tiêu chuẩn này không phải là các qui định phạm pháp luật - chúng không đầy đủ, không chính thức, và có thể bị thay đổi - nhưng chúng thật sự đánh dấu một khởi đầu ấn tượng trong tiến trình từ bỏ những luật lệ mang dấu ấn cá nhân thời Mao. Cơ sở của tính chính đáng đã thay đổi, những nhà lãnh đạo kế tục Đặng nhìn thấy khả năng hạn chế khi một mình họ làm chính sách. Dù rằng Đặng không có sức mạnh không gì kiềm chế như Mao, nhưng khi cần quyết định chiến lược, ông có thể hành động một cách đầy uy quyền và dứt khoát, một khi đã tham khảo ý kiến các đồng chí có ảnh hưởng. Hơn nữa, quy mô và phạm vi của các quyết định của Đặng thường rất lớn. Ngoài cải cách kinh tế, Đặng đã thực hiện nhiều chính sách quan trọng khác, như chính sách một con (năm 1979), đàn áp phong trào phản kháng của Nhóm Bức tường dân chủ cùng năm, vào năm 1989 tuyên bố thiết quân luật và triển khai quân đội tại Bắc Kinh. Vấn đề Đài Loan, Đặng Tiểu Bình đã rất thoải mái khi nói dành việc giải quyết quan hệ hai bờ eo biển này cho thế hệ mai sau. Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình, ngược lại, có nhiều hạn chế hơn. Sự khác biệt này biểu hiện đầy đủ nhất vào cuối năm 2012 và trong năm 2013, khi Tập lên nhậm quyền từ tay Hồ. Trong những năm 1970, khi xây dựng mối quan hệ với Nhật Bản, Đặng đã có thể gác sang một bên vấn đề chính trị-dân tộc nhạy cảm về chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư (Nhật gọi là quần đảo Senkaku). Nhưng Tập Cận Bình, vừa khi vào vị trí chóp bu và để khẳng định quyền lực của mình, đã buộc phải phải hành động mạnh tay đáp trả động thái của Tokyo (tháng 9 năm 2012) tuyên bố quốc hữu hóa quần đảo này. Trung Quốc, nói cách khác, đã chuyển từ thời kỳ cai trị bởi những cá nhân quyền lực sang thời kỳ các nhà lãnh đạo bị hạn chế bởi quyết định tập thể, giới hạn nhiệm kỳ và các tiêu chí khác (công luận, các nhân vật kỹ trị…), theo kiểu "Mao và Đặng có thể quyết định; Giang và các nhà lãnh đạo hiện nay phải tham khảo ý kiến". Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay không giống Mao, không giống Đặng còn ở khía cạnh quan trọng: về mục đích, họ ít mong muốn tạo ra sự thay đổi lớn; và để tâm nhiều hơn trong việc giữ ổn định của hệ thống, cũng như việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đó. Mục tiêu của Đặng là chuyển đổi. Đặng đã tìm cách chuyển Trung Quốc lên các bậc thang kinh tế và vào hệ thống quyền lực toàn cầu, và ông ta đã làm được điều đó. Đặng đã mở cửa để Trung Quốc đến với kiến thức nước ngoài, khuyến khích người trẻ tuổi của Trung Quốc ra nước ngoài học tập (nhờ những trải nghiệm tốt đẹp của chính bản thân ông trong những năm học tập ở Pháp và Liên Xô), và để cho các lợi thế so sánh, thương mại, giáo dục “tự do làm công việc kỳ diệu của chúng”. Kế tục Đặng, Giang Trạch Dân lên nắm quyền căn bản là vì ông đại diện cho sự thay đổi lớn trong phong cách lãnh đạo: trong bối cảnh cuộc biểu tình Thiên An Môn (1989), cả lực lượng ủng hộ cải cách và những người còn cảnh giác với cải cách, đều xem ông như một lãnh đạo có năng lực và ôn hòa. Nhưng Giang đã nhanh chóng “nhảy rào về phía cải cách”. Giang đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, chuẩn bị đưa người Trung Quốc vào vũ trụ, và lần đầu tiên, vạch rõ rằng ĐCSTQ cần thiết phải thu hút một số lượng lớn trí thức (những người sáng tạo và có tay nghề cao) vào hàng ngũ của đảng. Trong 13 cầm quyền, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 9,7%. Giang Trạch Dân, về cả tính cách và hoàn cảnh, còn xa mới xứng với nhà “cải cách mở cửa” Đặng. Là một kỹ sư được đào tạo bài bản, Giang có tính thực tế và tập trung vào làm những việc có khả năng nhất. Ví dụ vào năm 1992, ông nói với một nhóm người Mỹ rằng một thập kỷ trước, khi ông đang là một quan chức cấp thấp, ông đã đến thăm Chicago và đặc biệt quan tâm đến việc thu gom rác thải của thành phố, vì ông hy vọng sẽ tìm thấy một giải pháp cho vấn đề vỏ dưa hấu thải bỏ vương vãi khi trở về nhà. Sau đó ông nói với người Mỹ rằng khi làm thị trưởng thành phố Thượng Hải, ông đã tiết kiệm được đất đai bằng cách xây dựng cầu xoắn ốc trên các đường dốc, nhờ đó giảm sự di dời của cư dân thành phố... Không phải những thay đổi xã hội mạnh bạo, mà những mối quan tâm rất cụ thể về vật chất của Giang Trạch Dân đã cải thiện được cuộc sống của những người Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào và vị Thủ tướng cùng thời là Ôn Gia Bảo, đã cho thấy ít có những biến đổi hơn. Điều này có thể dự đoán được ngay trong năm 2002, vào đêm trước thời đại của Hồ, đó là "việc hướng tới một tập thể lãnh đạo, thay vì một lãnh tụ tối cao" và "lãnh đạo trong tương lai sẽ có tính tập thể, dân chủ hơn, các nhà lãnh đạo sẽ tìm kiếm sự đồng thuận chứ không phải đưa ra các quyết định cá nhân”. Nhược điểm là thế hệ lãnh đạo này sẽ được hưởng quyền lực ít hơn. Và sẽ khó khăn hơn cho họ khi cần phải đưa ra các quyết định táo bạo vào đúng lúc cần thiết. Hồ không ban hành bất cứ quyết sách nào có tính cải cách cả về chính trị lẫn về kinh tế. Thành tích đáng chú ý nhất của ông là đã tăng cường quan hệ với Đài Loan. Các lý giải một cách khoan dung cho những năm tại vị “mờ nhạt” của Hồ Cẩm Đào là ông đã thực hiện thành công các cải cách sâu rộng do Đặng, do Giang khởi xướng. Sau khi vào vị trí lãnh đạo tối cao của đảng tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình đã thực thi quyền lực của mình vào năm 2013 khi cho phép tiến hành một cuộc tranh luận mạnh mẽ về cải cách, ngay cả khi đã thắt chặt các hạn chế về tự do ngôn luận. Cốt lõi của các cuộc tranh luận này liên quan đến câu hỏi: làm thế nào để phục hồi tăng trưởng kinh tế và cải cách chính trị đến mức nào để trở thành một điều kiện quyết định giúp kinh tế phát triển hơn nữa. Sau Hội nghị TW III (tháng 11 năm 2013), chính quyền Tập tuyên bố sẽ “cải cách sâu rộng toàn diện" và thành lập cơ quan là Ban Chỉ đạo trung ương [*] để chỉ đạo thực hiện. Sự kiện này cho thấy nhiều mâu thuẫn trong chính sách vẫn còn và chính quyền trung ương còn phải tập trung vào các cải cách cho đến 2020. Điều đó cũng chỉ ra sự thiếu hụt một chính sách rõ ràng cho tương lai phía trước, bởi lẽ trong nhiều lĩnh vực, Trung Quốc cần được thị trường hóa, ở những lĩnh vực khác lại cần được phân cấp hoặc cần phải tập trung cao độ. Dù còn chưa rõ nét, song động lực của chính sách mới là bám sát chức năng của thị trường để thị trường giữ vai trò quyết định trong phân bổ các nguồn lực, như tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh, đơn giản hóa các quy trình thủ tục hành chính. Người nước ngoài có thể thấy những hứa hẹn của chính phủ hầu "tạo điều kiện tiếp cận đầu tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu thương mại tự do và mở rộng thị trường nội địa và mở cửa ven biển". Những chính sách này đòi hỏi những cải cách ở lĩnh vực chính trị, và như trong Thông báo kết quả Hội nghị, đó là sự cần thiết phải thay đổi trong ngành tư pháp và trong chính quyền địa phương, cũng như mở rộng hơn các quyền cho người nông dân. Với thông báo việc thành lập Ủy ban an ninh quốc gia [**], Hội nghị đã xác định an ninh cả bên trong lẫn bên ngoài đã trở thành mối quan tâm lớn của quốc gia. Cuộc Vạn lý trường trinh mới đã bắt đầu ! XÃ HỘI BỊ PHÂN CHIA Những thay đổi trong phong cách lãnh đạo cá nhân đã khá trùng hợp với sự thay đổi mang tính kiến tạo, như: sự đa dạng hóa trong xã hội, trong nền kinh tế, và ngay trong bộ máy cai trị quan liêu. Thời đại Mao, các nhà lãnh đạo khẳng định rằng họ chỉ phục vụ cho một lợi ích duy nhất - đó là lợi ích của quần chúng nhân dân. Công việc của chính phủ là thực thi chuyên chính vô sản và giáo dục người dân về lợi ích của họ. Cai trị không phải là để dung hòa sự khác biệt mà là để loại bỏ chúng. Tuy vậy, ngay từ thời của Mao, xã hội và bộ máy cai trị quan liêu ở Trung Quốc đã bị phân thành nhiều mảnh, khiến Bắc Kinh luôn khó khăn khi đưa ra các quyết định cũng như khi thực hiện chính sách. Để đối phó với thách thức này, chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là kể từ thời kỳ của Đặng, đã phát triển một hệ thống thẩm quyền có tính ứng phó, dù chưa đáp ứng hết yêu cầu cân bằng các lợi ích chính về địa lý, chức năng, phe phái, và việc làm chính sách chủ yếu được thông qua đại diện ở cấp cao nhất của ĐCSTQ. Việc tự thể hiện về chính trị vẫn còn hạn chế, việc ra quyết định của nhóm tinh hoa vẫn chưa minh bạch, nhưng giới lãnh đạo ở Trung Quốc giờ đây đã cố gắng để giải quyết, chứ không phải là loại bỏ các mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích cạnh tranh nhau, và chỉ trấn áp các cuộc xung đột một khi thấy chúng là mối đe dọa đặc biệt lớn. Họ đã cố gắng kiểm soát các nhóm cử tri khác nhau và chỉ thẳng tay trấn áp các lãnh tụ của phong trào chống chính phủ. Về bản chất, nhiều người trong số các nhóm lợi ích mới, có thế lực ở Trung Quốc hình thành một cách tự nhiên. Người lao động và giới chủ xung đột nhau về điều kiện làm việc và tiền lương. Tương tự như vậy, khi các doanh nghiệp Trung Quốc phát triển đến độ như các công ty phương Tây, họ sẽ chỉ phục tùng phần nào đó các chỉ thị của đảng. Ví dụ, ngành công nghiệp đánh cá ngày càng được tư nhân hóa, trong 2012, hơn 70% công ty “đánh bắt xa bờ" của Trung Quốc đã được tư nhân, khiến chính quyền trung ương khó khăn hơn để ngăn chặn việc đánh bắt quá mức. Trong khi đó, do nhà nước còn quản lý, các Tổng công ty quốc gia Dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc (CNOOC) phải hậu thuẫn cho chính sách độc chiếm Biển Đông, nơi được xem còn trữ lượng dầu – khí lớn; nhu cầu ngân sách lớn hơn để tăng cường tiềm lực thường trực và hiện đại hóa Hải quân. Hẳn nhiên, các nhóm lợi ích đã trở thành lực lượng tham gia ngày càng có ưu thế trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại. Bộ máy quan liêu ở Trung Quốc dường như đã thích nghi với sự gia tăng của các nhóm lợi ích, bởi các nhóm này ngày càng hình thành nhiều hơn. Thông qua diễn đàn của các "tiểu tổ lãnh đạo" (lingdao xiaozu), các xung đột giữa các nhóm lợi ích và các địa phương được giải quyết, và ngày nay các phó Thủ tướng và Ủy viên Hội đồng nhà nước phải dành nhiều thời gian hơn để giải quyết các xung đột như vậy. Trong khi đó, các tỉnh, thành phố lớn như Thượng Hải, các Hiệp hội công nghiệp và thương mại ngày càng dựa vào các đại diện của mình có tại Bắc Kinh hầu tìm kiếm lợi ích của băng nhóm mình qua vận động hành lang đối với các quyết định, chính sách quốc gia. Mô hình tương tự cũng được nhân rộng ở cấp tỉnh, thành phố. QUYỀN LỰC NHÂN DÂN Mao không bao giờ cho phép công luận kiềm chế chính sách của ông, ý chí nhân dân là một cái gì đó do chính bản thân ông định đoạt. Với Đặng Tiểu Bình, dù đã thừa nhận cải cách, vì lo sợ rằng ĐCSTQ sẽ mất đi tính chính đáng, nhưng Đặng chỉ chấp nhận công luận khi nó phù hợp với các phân tích của ông. Ngày nay, tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều công khai nói về tầm quan trọng của công luận, với mục tiêu là để chặn trước các vấn đề. Tháng 8 năm 2013, các tờ báo nhà nước Trung Quốc hàng ngày nhắc nhở độc giả rằng Ủy ban Phát triển và Cải cách quốc gia đã ban hành quy định yêu cầu các quan chức địa phương phải tiến hành đánh giá rủi ro để xác định những biến động do phản ứng của dân chúng đối với các dự án xây dựng lớn và yêu cầu tạm ngừng nếu dự án có “sự phản ứng cấp trung". Một bộ máy lớn được xây dựng nhằm đo lường quan điểm của người dân, trong năm 2008, có các dữ liệu thăm dò của 51.000 doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp có nhiều hợp đồng chính phủ, Bắc Kinh thậm chí đã bắt đầu sử dụng số liệu điều tra để giúp đánh giá tín nhiệm các quan chức ĐCSTQ. Sau Đặng, đất nước đã không còn lãnh tụ, nhờ đó một loại xã hội dân sự hình thành ! Một chuyên gia thăm dò dư luận, người có nhiều đơn hàng của chính quyền trung ương, đã nhận xét (năm2012) tại Hoa Kỳ, thăm dò dư luận được dùng cho các cuộc bầu cử, Trung Quốc, công dụng chính của các cuộc thăm dò là giám sát các hoạt động của chính phủ. Sự phát triển trên cho thấy giới lãnh đạo đã thừa nhận chính phủ ngày càng phải đáp ứng được nhiều hơn nữa. Kể từ năm 2000, chính phủ ngày càng viện dẫn công luận khi giải thích chính sách về tỷ giá, thuế, và cơ sở hạ tầng. Công luận thậm chí có thể “chống lưng” cho nhiều quyết sách của Bắc Kinh trong năm 2009 và 2010. Ngưu Tân Xuân, một học giả Trung Quốc, bình luận rằng Bắc Kinh đã chọn một chính sách cứng rắn nhiều hơn trong các tranh chấp trên biển và trong đường lối đối ngoại trong thời gian này như là một đáp ứng trực tiếp trước sự giận dữ của công chúng về những lời chỉ trích của phương Tây đối với nhân quyền ở Trung Quốc, đặc biệt là trong thời gian chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic 2008, khi một số nhà lãnh đạo phương Tây muốn tẩy chay Thế vận hội. Các nhật báo Trung Quốc còn loan tin rằng, người Trung Quốc không muốn Tổng thống Pháp, ông Nicolas Sarkozy, đến tham dự lễ khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Phản ứng này phản ánh sự thừa nhận rằng khi chính quyền địa phương, các tổ chức phi nhà nước, và các cá nhân phát triển mạnh hơn, thì chính quyền trung ương dần mất đi thế độc quyền đối với ngân sách, nguồn lực con người, và ngay cả với thông tin. Ví như về nguồn vốn, kể từ thời Đặng Tiểu Bình, tiền bạc ngày càng tích tụ nhiều bên ngoài “két bạc” của trung ương. Từ 1980 đến 2010, tổng thu ở cấp địa phương đã tăng từ 46% đến 82%. Trong khi đó, tổng sản lượng công nghiệp sản xuất của nhà nước giảm từ 78% năm 1978 xuống đến 11% năm 2009. Do nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát hoạt động trong các lĩnh vực chiến lược, như quốc phòng, năng lượng, tài chính và cơ sở hạ tầng công cộng quy mô lớn, và người dân bình thường vẫn không được hưởng bất cứ điều gì là thành quả của kinh tế thị trường theo đúng nghĩa. Biến đổi này cũng là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển tệ tham nhũng ở địa phương, trong giới lãnh đạo quân sự, hình thành băng nhóm tội phạm, lừa đảo… đi ngược lại với lợi ích của đông đảo người dân. Khi người dân được tham gia kiểm soát các nguồn lực kinh tế, họ được lựa chọn nhiều hơn về nơi ở, những tài sản cần tích lũy, giáo dục con cái và theo đuổi cơ hội nào để phát triển. Tuy chưa phải là tự do hoàn toàn, nhưng nó là một sự khởi đầu nhiều hứa hẹn. Về nguồn nhân lực, trong năm học 1977-78, năm đầu tiên sau Cách mạng Văn hóa, khoảng 400.000 học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, đến 2010, con số đó đã tăng lên 6,6 triệu. Hơn nữa, nhiều sinh viên Trung Quốc đang học tập ở nước ngoài, trong năm học 2012-13 có hơn 230.000 (có nhiều người học tự túc) theo học ở Hoa Kỳ và nhiều người trở về nhà sau khi tốt nghiệp. Kết quả là Trung Quốc hiện sở hữu một lượng lớn các cá nhân tài năng, những người có thể trợ giúp cho các tổ chức và các doanh nghiệp mà không cần trợ giúp từ phía nhà nước. Mỗi ngày qua, các thực thể này lại phát triển thêm lên về số lượng và sức mạnh, và trong nhiều trường hợp, chính họ đã bắt đầu thực hiện những chức năng mà theo truyền thống phải do nhà nước giải quyết hoặc chưa được bất kỳ ai giải quyết. Ví dụ, Học viện Dịch vụ công và Môi trường, một tổ chức phi chính phủ chuyên thu thập và công bố những dữ liệu tổng quát về tình trạng quản lý chất thải của các nhà máy, đã góp công gây áp lực với các công ty gây ô nhiễm môi trường, và buộc phải thay đổi cách thức hoạt động… Người dân bình thường hôm nay đã được tiếp cận nhiều hơn với thông tin. Hơn nửa tỷ người Trung Quốc đang sử dụng Internet. Ngoài việc hạn chế dòng chảy thông tin bằng “tường lửa”, chính phủ hiện phải chiến đấu với thông tin bằng chính các thông tin. Ví dụ, để giảm các tin đồn trực tuyến trong vụ Bạc Hy Lai, chính phủ chỉ công bố một phần rất hạn chế tranh tụng tại tòa án cho giới truyền thông. Chính quyền trung ương đã thực hiện những nỗ lực to lớn nhất cho khai thác các lợi ích của Internet, cũng như cố gắng loại bỏ những hiệu ứng gây bất ổn định nhất có từ công nghệ này. Ở một khía cạnh khác, ngày càng nhiều người dân đổ xô đến với thành phố. Đô thị hóa khiến giáo dục và thu nhập có phần được nâng cao, là kỳ vọng của đông đảo dân cư. Được sống nơi đô thị họ dường như được hít thở bầu không khí trong lành của tự do ! Những đô thị đông ken dân cư với các nhu cầu gia tăng nhanh chóng, có kiến thức hơn, và dễ dàng hơn khi tham gia các hoạt động xã hội… đã gây nhiều khó khăn gấp bội trong quản trị xã hội cho giới lãnh đạo. Sự thật đó đã được nhận thức. Ví dụ, tháng 12 năm 2011, báo The Guardian đưa tin ông Zheng Yanxiong, một bí thư địa phương của Tỉnh Quảng Đông khi phải trực diện với những nông dân đang tức giận do bị thu hồi đất đai, đã nói trong bức xúc: “Chỉ một số người thực sự nếm trải khó khăn năm này sang năm khác. Họ là ai? Là cán bộ cơ sở, như tôi !". CÔNG DÂN HAY THẦN DÂN Công cuộc cải cách mang tính cách mạng ở Trung Quốc đã đạt kết quả mà chính Đặng cũng như các đồng chí của ông không thể dự đoán trước. Giới chức lãnh đạo cao nhất ở Trung Quốc đang gặp phải những khó khăn trong quản trị quốc gia theo phương thức tập thể, với bộ máy ngày càng quan liêu, phức tạp và trong một xã hội đang phát triển nóng. Công việc dường như khó khăn hơn do thiếu vắng các định chế điều chỉnh các lợi ích khác nhau, phân xử một cách vô tư những xung đột giữa các lợi ích này, và đảm bảo việc thực hiện một cách có trách nhiệm và liêm chính các chính sách. Nói cách khác, dù Trung Quốc có thể có một nền kinh tế mạnh mẽ và một quân đội hùng mạnh, song hệ thống quản trị quốc gia đã trở nên dễ đổ vỡ hơn bao giờ. Những áp lực này dẫn Trung Quốc đến một trong những ngả đường, như sau: Một là, Trung Quốc sẽ cố gắng thiết lập lại hệ thống tập trung và toàn trị hơn, nhưng cuối cùng sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu của một xã hội đang biến đổi nhanh chóng. Hai là, khi phải đối mặt với rối loạn và phân rã, một nhà lãnh đạo mới có uy tín, đáp ứng được với cải cách sẽ xuất hiện và thiết lập nên một trật tự mới - có thể sẽ dân chủ hơn nhưng cũng có khả năng sẽ độc tài hơn. Kịch bản thứ ba nguy hiểm hơn, Trung Quốc tiếp tục được đa nguyên hóa, nhưng không hề xây dựng các định chế cần thiết cho một nền quản trị quốc gia có tinh thần trách nhiệm và liêm chính khi đối nội và không hề có tính xây dựng khi đối ngoại. Con đường đó có thể dẫn đến thảm họa ! Kịch bản thứ tư, theo đó các nhà lãnh đạo của Trung Quốc ra sức thúc đẩy đất nước tiến lên, thiết lập nền pháp trị và cơ chế quản trị quốc gia phản ánh được đầy đủ các lợi ích đa dạng của đất nước. Bắc Kinh cũng phải củng cố hơn bao giờ hết tính chính đáng, bên cạnh duy trì tốc độ tăng trưởng, cải thiện cuộc sống vật chất của dân chúng, tăng cường vị thế toàn cầu… nhờ xây dựng các định chế dựa trên sự ủng hộ thực sự của đông đảo người dân. Không nhất thiết là nền dân chủ đầy đủ, nhưng các tinh hoa của một nền dân chủ sẽ được áp dụng: sự tham chính của các cấp địa phương, minh bạch trong điều hành, cơ quan tư pháp và chống tham nhũng độc lập hơn, một xã hội dân sự năng động, hiến định quyền kiểm soát đối với hành pháp, lập pháp và các tổ chức dân sự chuyển tải các lợi ích đa dạng của quốc gia. Sau cùng, là thử nghiệm để dân chúng được tự do lựa chọn các nhà lãnh đạo tối cao hầu cai trị mình. Vấn đề chính hiện nay, Tập có ủng hộ một tiến trình như vậy không, ông có theo đuổi mục tiêu đó không. Bước đầu, những người ủng hộ cải cách kinh tế được tiếp thêm sức mạnh từ sự điều hành của Tập, và các chính sách quan trọng được thông qua trong Hội nghị TW III (2013) sẽ gia tăng áp lực với yêu cầu cải cách chính trị. Còn quá sớm để nói thời gian phục vụ trong quân đội và kinh nghiệm công tác ở các lĩnh vực hiện đại hóa , mang tính quốc tế… tại Phúc Kiến, Chiết Giang và Thượng Hải giúp cho ông củng cố quyền lực và tầm nhìn cần thiết để thúc đẩy đất nước theo hướng phát triển của lịch sử hay không ! Tập cùng sáu thành viên khác của UB Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan quyền lực tối cao quyết định vận mệnh của Trung Quốc, là tập thể các thành viên có học vấn cao hơn các các vị tiền nhiệm. Sự đa dạng này có thể mở đầu một kỷ nguyên sáng tạo, nhưng cũng có thể là sự tê liệt, sơ cứng. Còn nhiều ẩn họa phía trước. Nhưng lịch sử cũng cho người ta niềm hy vọng: ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã có tầm nhìn vượt qua Mao và hệ thống đã lỗi thời của Mao; ở Đài Loan, những năm 1980 Tưởng Kinh Quốc mở đầu cải cách tự do hóa mà trước đó cha của ông, Tưởng Giới Thạch từng ngăn chặn. Dừng lại ẩn chứa trong đó sự nguy hiểm lớn hơn vận động, Trung Quốc hy vọng giới lãnh đạo kịp nhận ra sự thật này để đưa quốc gia tiến về phía trước. Nếu Tập cùng đồng chí của mình không hành xử như vậy, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng: tăng trưởng kinh tế chậm lại, tiềm năng con người bị lãng phí, bất ổn xã hội có thể xảy ra. Và nếu lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi hệ thống quản trị nhân văn hơn, có sự tham gia đầy đủ của các thành phần trong xã hội, căn bản dựa trên luật pháp…, mà vẫn duy trì được tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và ổn định được xã hội, thì họ sẽ hồi sinh được quốc gia này – mục tiêu của những người yêu nước và cải cách trong hơn một thế kỷ rưỡi qua./. Chú thích từ Văn kiện của HNTW III: [*] Ban Chỉ đạo trung ương về thúc đẩy cải cách chịu trách nhiệm về các kế hoạch cải cách toàn diện, kiểm soát sự ứng dụng và thực hiện các cải cách; Ban này có trách nhiệm (cuối cùng) trước TBT, CT Tập Cận Bình. [**] Ủy ban An ninh quốc gia, có chức trách để ra và thực thi chiến lược an ninh quốc gia - bảo vệ chủ quyền về đối ngoại, duy trì ổn định xã hội về đối nội; thúc đẩy xây dựng môi trường pháp trị cho các sự vụ an ninh quốc gia; đề ra phương châm chính sách công tác an ninh quốc gia và nghiên cứu giải quyết các vấn đề trọng đại của an ninh quốc gia.
|