Bất hạnh
Thiện Tùng
I.
– “... Đưa cha nó vào đây mấy hôm, chúng tôi chẳng thấy ai ngoài nó.
Chúng tôi cần chi gọi nó, bàn gì… cũng với nó. Nó dành tất cả cho cha
nó, một mình lo trong lo ngoài, chạy tới chạy lui như con thoi. Nó mua
cơm cháo, sữa, trái cây… về ép cha nó ăn.
Dường như nó chỉ ăn những thứ mà cha nó không ăn hoặc ăn không hết. Ngày
cũng như đêm, đi đâu thì thôi, khi về nó lau cho cha, bắt ghế cóc ngồi
dựa vào giường cha nó, nó chỉ ngủ khi cha nó nằm êm, thức dậy ngay khi
cha nó ho hoặc cựa mình. Khi đưa cha nó vào phòng cấp cứu, ở bên ngoài
nó không hề ngồi, cứ đi tới đi lui như gà mắc đẻ. Khi báo cha nó qua đời
và hỏi nó xử lý cái xác bằng cách nào, nó đứng như trời trồng, chẳng nói
chẳng rằng. Ít lâu sau, nó quẹt nước mắt, nói gọn : “Hiện tôi không
có nhà, gia đình không còn ai ngoài tôi”. Nó mượn điện thoại gọi cho
ai đó chừng vài phút rồi nói như khẩn: “Xin bịnh viện cho tôi giấy
chứng tử và giúp chuyển cha tôi sang nhà xác. Tôi sẽ nhờ công ty Mai
táng đem quan tài đến tẩm liệm. Xin bịnh viện cho để quan tài cha tôi ở
nhà Vĩnh biệt qua đêm. Sáng sớm mai, tôi đưa cha tôi đi hỏa táng theo
lời dặn của ông ấy. Đây là giấy chứng minh nhân dân và bằng đại học của
tôi gởi cho bịnh viện. Tôi sẽ lấy lại nó khi thanh toán xong viện phí”.
Bịnh viện không nhận những giấy tờ ấy và thuận theo yêu cầu của nó.
Đêm ấy, ba bốn chàng trai trang lứa nó, mang đèn nhang đến ở qua đêm với
nó. Nó tìm đâu ra mảnh vải trắng cột trên đầu lấy lễ.
Sáng hôm sau, công ty Mai táng lại cho xe đến, quan tài để giữa, nó ngồi
trước với bác tài, các chàng trai ém hai bên quan tài đi lò thiêu.
Chiều hôm ấy, với vẻ phờ phạc, nó đến bịnh viện cám ơn và xin thanh toán
viện phí. Thương tình, bịnh viện miễn toàn bộ phí tổn – hơn 2 triệu
dồng.
II.
– “Nãy giờ ông kể hết nó thế nầy đến nó thế kia mà chẳng nói rõ xem nó
là đứa nào, con cháu nhà ai … mà ra nông nỗi?!” – bạn tôi thắc mắc.
– Đó là tôi tóm lược lại cho anh nghe những gì các thầy thuốc và bịnh
nhân ở bịnh viện Chợ Rẫy xúc cảm, nhắc tới nhắc lui cảnh thảm thương mà
họ chưa từng chứng kiến, chớ tôi còn lạ gì nó. Nó là thằng Thông –
Nguyễn Trí Thông, cha nó là Ba Chí – Nguyễn Hữu Chí.
– Chí nào, có phải Chí Phó Ban Tuyển sinh tỉnh Tiền Giang, viết báo,
viết văn với bút danh Sĩ Tâm, đi bộ dạng như cò ho lao đó không?
– Chớ còn ai. Anh ấy con gia đình khá giả ở huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre,
học tốt nghiệp trường trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Sau khi tốt
nghiệp, anh trốn gia đình đi Vệ Quốc Đoàn chống Tây, năm 1954 tập kết ra
Bắc Việt Nam. Do thể hình mảnh khảnh, anh được chuyển sang ngành Giáo
dục. Sau tốt nghiệp Đại học Sư phạm, anh cùng một số người khác vượt
Trường Sơn về Nam Việt Nam tham gia kháng chiến chống Mỹ. Lúc bấy giờ,
sư đoàn 9 Mỹ vào Mỹ Tho, lập căn cứ Đồng Tâm ở xã Bình Đức. Chúng “quậy”
quá, thầy Chí nói riêng, giáo viên Cách mạng nói chung, người ta nói
ghẹo cho vui “Giáo viên mất dạy” – nghĩa là ở vùng “giải phóng”
không có chỗ yên tịnh mở trường dạy học. “Không xay lúa thì bồng em”,
anh Chí tham gia chiến trường, làm bất cứ chuyện gì miễn có lợi cho Cách
mạng như bao người khác.
Những năm cuối cuộc chiến, anh được phân công chi viện cho thành phố Mỹ
Tho, liên hệ giao công việc cho số giáo viên vốn là cơ sở Cách mạng hợp
pháp ở trường Nguyễn Đình Chiểu. Trong những thầy cô ấy, có một số người
là bạn học của anh trước đây. Anh là một trong số người có mặt sớm nhất
khi giải phóng TP Mỹ Tho chiều 30/04/1975.
Thời chống Pháp trước đây, chống Mỹ sau nầy, TP Mỹ Tho bao giờ cũng được
xem là thủ phủ khu Trung Nam Bộ (Sài Gòn là Đông Đô, Mỹ Tho là Trung Đô,
Cần Thơ là Tây Đô). Sở Giáo Dục khu Trung Nam Bộ tiếp quản và đặt trụ sở
tại TP Mỹ Tho. Ngoài công việc tham gia quản lý Giáo Dục, anh Chí còn
làm giáo viên dạy Văn. Trong nói và viết tiếng Việt, anh Chí thường nói
ngắn gọn, xúc tích, ít tạp chất. Suốt một phần tư thế kỷ (1950-1975)
không nói, không sử dụng tiếng Pháp, thế mà khi đất nước bắt đầu chú
trọng ngoại ngữ, anh Chí dịch “trình làng” một số tác phẩm từ tiếng Pháp
sang tiếng Việt chuẩn đến mức khiến không ít người từ bất ngờ đến ngạc
nhiên, thán phục.
Cuối năm 1975, khi 40 tuổi, anh Chí quyết định kết thúc quãng đời độc
thân. Anh kết hôn với cô giáo Điệp, cô nhỏ hơn anh một con giáp. Trước
lễ cưới mấy ngày, Sở Giáo Dục tạm cấp cho anh chị căn nhà xập xệ trong
khuôn viên trường Nguyễn Đình Chiểu để “xây tổ uyên ương”. Ít lâu sau,
Sở Giáo Dục báo: “Bên Tây vừa thông báo cho ta biết, nhà trong khu
trường Nguyễn Đình Chiểu nói chung đã hết hạn sử dụng”. Có lẽ Tây
nói đúng, tường nhà đổ cát lòi gạch lỗ chỗ, dàn cây bên trên mối mọt gậm
nhấm. Biết ở nguy hiểm, nhưng biết tìm đâu ra chỗ, đành phải trân mình
bám trụ! Và đây cũng là nơi anh chị cho ra đời Trí Thông và em gái của
nó. Họ cùng sống hạnh phúc trong ngôi nhà tạm bợ nầy.
Theo sự phân công của Sở Giáo Dục, anh Chí rời giảng đường, làm phó Ban
Tuyển sinh Tỉnh. Chưa được bao lâu gặp vận rủi: Chị Điệp chở con gái đi
nhà trẻ, đến ngã tư cầu bắc cũ, anh Đàng – người lái xe cho bí thư tỉnh
ủy Huỳnh văn Niềm, bất cẩn khi quanh cua, cán trọng thương hai mẹ con
chị Điệp, chở đến bịnh viện chỉ còn thoi thóp. Nhìn vợ con thê thảm, anh
Chí như người có xác không hồn. Có lẽ không đủ can đảm chừng kiến, anh
Chí lôi xểnh thằng Thông về nhà. Chỉ trong vòng 20 phút, anh nhận 2 hung
tin vợ và con gái tử nạn. Anh ngồi gục đầu, Thông đứng cạnh khóc thút
thít. Cán bộ Tổ chức đến tham khảo với anh: “Nhà chật, đưa chị Điệp
và cháu vào Hội trường Đỏ tẩn liệm, làm lễ tang , sau đó đưa đi chôn ở
nghĩa địa Bình Đức”? Anh Chí đáp gọn: “Làm gì đó làm”. Đến
giờ làm lễ truy điệu, Ban Lễ tang cho xe đến rước cha con anh. Chẳng nói
chẳng rằng, anh ngồi thừ ra đó, vặn radio lớn hơn. Tôi nài nỉ mãi, anh
tắt radio, ra sau rửa mặt, chải tóc rồi nắm tay Trí Thông lững thững ra
xe chẳng nói chẳng rằng. Lễ tang vợ con mình mà anh như người ngoại
cuộc, ngay khăn tang cũng đợi người bịt cho. Đến nơi an táng, huyệt đã
đào xong, quan tài đã hạ, phải dẫn cha con anh đến, lấy đất ấn vào tay
rồi còn phải gỡ tay cho đất rơi xuống – coi như hạ lịnh lấp đất. Người
ta mới bắt đầu lấp đất, anh nói như lịnh: “Cho cha con tôi về”.
Ban Lễ tang cho xe đưa 2 người sống và vong 2 người chết về lại ngôi nhà
đã hết hạn sử dụng. Từ đó ngôi nhà trở nên quạnh quẽ, bặt tiếng cười.
Khi anh Chí nghỉ hưu, Sở Giáo Dục dọn nhà kho gần cầu bắc cũ, tạm cấp
cho cha con anh ở. Nhà tuy cũ nhưng còn chắc, lợp tiếp-rô, thấp lè tè,
nắng như lò sấy, mưa lớn giọt mưa rơi trên nóc như máy bay rải bom bi.
Nhà chỉ cách chỗ xe đụng vợ con anh vài chục thước. Anh thường đóng cửa
ở rút trong nhà, hỏi ra mới biết, anh sợ nhìn lại hiện trường nhớ người
thân quá cố.
Vợ con anh Chí chết thảm như thế, suốt mấy tháng trời, chẳng nghe ai nói
phải quấy gì buộc Anh phải có ý kiến. Dây dưa mấy tháng trời nữa, Tòa án
tỉnh mới cho mời bên nguyên cáo (Ba Chí), bên bị (lái xe Đàng) ra tòa,
việc rõ như ban ngày, nói tới nói lui đôi điều cho đủ lễ, Tòa tuyên án
đại khái: “Bên bị bất cẩn gậy hậu quả nghiêm trọng, lãnh án tù 2 năm.
Sinh mạng người vô giá, vì vậy bên bị hỗ trợ cho bên nguyên 30.000 đồng…”(thời
điểm năm 1984).
Không đợi mời, anh Chí vừa giơ tay vừa đứng lên nói: “Sở dĩ tôi kiện
buộc Toà xử lý vụ án để khẳng định vợ con tôi thật sự là người chớ không
phải cóc, nhái. Giờ đây có đem xử tử anh Đàng, vợ con tôi cũng không thể
khác – chỉ khăn tang nối tiếp khăn tang? Tôi không nói lượng tiền như
thế nhiều hay ít, tôi muốn nói hai chữ “hỗ trợ” mà Tòa vừa tuyên – hỗ
trợ là có đi có lại, còn “hộ trợ” là trợ giúp một chiều. Hỗ hay hộ trợ
đếu có nghĩa ban ơn, bố thí. Dầu nghèo, nhưng cha con chúng tôi chưa cần
sự “hảo tâm” ấy. Yêu cầu Tòa đổi 2 chữ hỗ trợ hay hộ trợ gì đó bằng 2
chữ “bồi thường” trong văn bản. Nếu quí Tòa không thỏa mãn yêu cầu nhỏ
nầy của tôi ở đây, tôi còn có ý kiến ở nơi khác”.
Thế rồi, phiên tòa kết thức sau câu nói dứt khoát của chủ tọa: “Như
đã nói, mạng người vô giá, nếu nói “bồi thường” biết sao cho vừa?”.
Anh Chí kháng án lên tòa án tối cao. Chừng nửa năm sau, Tòa án tối cao –
đoàn thường trú ở Sài Gòn, đến Tiền Giang, quần đảo mấy hôm, mở phiên
tòa phúc thẩm. Nói tới nói lui rồi kết thúc coi như y án – chỉ khác từ
30.000 lên 50.000 đồng tiền “hỗ trợ”.
Xem mòi anh Chí không còn bình tĩnh, giận run, đứng dậy buông ra câu tôi
còn nhớ: “Thôi đi các vị nếu muốn còn sự tôn trọng”.
Thế rồi anh Chí chập choạng rời khỏi phiên tòa. Thấy tội quá, tôi lấy xe
mô-tô đưa Anh về nhà. Đợi Anh bình tĩnh, tôi hỏi:
– Vụ này Anh tính sao nữa?
– Còn tính gì nữa ! Quốc gia vẫn xử vậy thì đành – chẳng lẽ mình kiện ra
Quốc tế!?… Có điều, nếu không đổi chữ “hỗ trợ” hay “hộ trợ” bằng chữ
“bồi thường” trong văn bản thì tôi quyết không nhận số tiền bố thí ấy.
Hàng năm giỗ chị Điệp và cháu, anh Chí mời tôi cùng một ít người thân
khác. Lần nào cũng như lần nào, khách mời cùng chủ quét dọn, lau chùi…
để rồi tiếp đón đôi ba món thức ăn do các cô giáo – bạn chị Điệp, nấu từ
đâu đem tới. Lần nào cũng vậy, sau khi cúng, dọn toàn bộ thức ăn lên cái
bàn dài giữa 2 cái băng gỗ xệu xạo, nam một bên nữ một bên, ăn chớ không
có uống – anh Chí không hề đãi rượu. Anh Chí viêm phế quản, nói tiếng
trống tiếng mái, ấy vậy mà Anh cũng giương cổ xả tức: “Người ta đi
Vũng Tàu nghỉ mát về nói: Gặp thằng Đàng đang quản lý nhà máy nước đá
cho Ủy ban Tỉnh chớ đâu có ở tù như Tòa án tuyên. Thằng Đàng ở tù hay ở
ngoài đối với tôi không thành vấn đề, với tòa án thì có – nói vậy chớ
không phải vậy”.
Hồi thằng Thông còn học ở tỉnh Tiền Giang, ngày đêm cha con hủ hỉ bên
nhau chia sớt vui buồn, với đồng lương hưu trí cha con anh Chí tạm bợ
gói ghém. Giờ đây, thằng Thông vào Đại học phải lên Sài Gòn, đêm vắng
canh buồn, bên bàn thờ hai người vắn số, anh Chí hiểu thế nào là tột
cùng của sự trống trải cô đơn.
Anh Chí hưởng lương chuyên viên 5, năm 1985, vỏn vẹn có 600.000 đồng
tháng, anh Chí sớt cho thằng Thông 400.000 đồng, anh chỉ phần còn lại.
Với 400.000 đồng, thuê chỗ ở, tiền trường, tiền sách vở, ăn cơm phần như
người thất nghiệp mà hàng tháng hễ qua ngày 20 là Thông nói với con tôi:
“Nghĩa, tao sạch bách rồi, mầy cứu bồ”. Thế là chết đuối cứu chết
trôi. Vậy mà sau hơn 4 năm, Nghĩa đậu Đại học Hàng Hải, Thông đậu Đại
học Bách khoa – khoa Mỹ thuật Công nghệ.
Thằng Thông có chí, sáng dạ và có hoa tay, mới Đại học năm thứ hai mà nó
trổ nghề chép tranh. Tranh nó chép khỏi chê, nhập chung khó phân biệt
đâu là bản mẫu. Mỗi tháng nó lãnh về chép được 3 bức, mỗi bức 300.000
đồng. Từ đó lương hưu của cha nó chia phần ngược lại – cha 7 con 3, vừa
đỡ khổ cho anh Chí và thằng Nghĩa cũng khỏi bao cho nó vào những ngày
cuối tháng.
Ở ủ trong nhà riết cũng oải, hàng sáng, anh Chí thả đi một vòng khoảng 1
ngàn thước từ nhà đến Vườn hoa Lạc Hồng, vừa cho giãn gân cốt, vừa xả
thán hít dưỡng. Hễ mệt, Anh trịch bên lề ngồi nghỉ. Tướng Anh đi như Cò
ho lao, ngồi gục khò khẹt như gà mắc xương.
Bữa nọ, thấy anh Chí ngồi nghỉ mệt ở lề đường trước nhà hàng Chương
Dương, anh Trần Thế Yên mời anh vào nhà hàng đãi cà-phê sữa. Uống được
chừng nửa ly, anh lật ngang sôi bọt mép. Thế Yên hộc tốc gọi xích-lô đưa
Anh vào bịnh viện cấp cứu. Yên gọi điện thoại cho tôi vào bịnh viện ngay
để cùng toan tính. Tôi vào đến nơi, đã có kết quả xét nghiệm bước đầu:
Anh Chí không phải bị ngộ độc mà bị tai biến mạch máu, liệt một bên
người, đã đưa vào phòng hồi sức. Yên ghị tôi ngồi xuống băng đá nói:
– Tụi mình đứa nào cũng bù đầu việc nhà, nhưng anh Chí lâm cảnh nầy cần
phải có người túc trực chăm sóc. Nếu gọi Thông về chăm sóc cha nó thì sẽ
ảnh hưởng sự học hành của nó. Nếu không tôi hoặc anh nhào vô biết cậy
vào ai?! Thôi thì hai đứa mình thay phiên nhau, ý anh?
– Khó cũng phải cố chớ nạnh ai, đành phải “Lá rách ít đùm lá rách
nhiều”.
Với anh Chí, tôi và Yên đều không phải họ hàng – chỉ là chiến hữu, là
bạn đời (không phải bạn đường). Đã là bạn đời thì đời đời vẫn là bạn,
phải sinh tử bất ly.
Biết rằng “khóc nhục, than hèn, rên yếu đuối”, nói để biết, để cảm thông
chớ không phải rên:
Thế Yên là cán bộ mất sức, vợ là nhân viên văn phòng Tỉnh Ủy, vừa bị
đuổi nhà, đang chạy chỗ lập cơ ngơi. Yên là kỹ sư Điện và kỹ sư Hóa.
Phải bươi mới có mổ, Yên mới khánh thành cơ sở sản xuất phân hữu cơ VAC,
có hơn 10 công nhân, đang bù đầu khâu quản lý nhân sự và kỹ thuật – hơ
hỏng phá sản tiêu đời.
Còn tôi cũng chẳng “sáng sủa” gì, là cán bộ nghỉ hưu, thương binh mất
sức 71%, ở nhà mướn, chạy cho 3 đứa con đang học Đại học muốn sặc máu,
còn phải chăm sóc vợ bịnh ung thư vú sau bước mổ, đang hóa và xạ trị
ngoại trú, đang xơ vơ xửng dửng, đầu rụng tóc trọc chát như ni cô.
Nhờ kết hợp điều trị, chăm sóc và nỗ lực của bịnh nhân, chỉ hơn một
tuần, anh Chí cử động toàn thân, tự gượng đi tới lui tắm rửa, tiểu tiện.
Ngày chủ nhật chúng tôi gọi Thông về thăm cha nó rồi khuyên nó yên tâm
trở lại trường lo việc học hành.
Khoảng 20 ngày sau, được bịnh viện đồng ý cho ánh Chí ngoại trú ở nhà.
Thế là ổn, Yên an lòng lo nhà cửa và cơ sở VAC, còn tôi chạy tới chạy
lui lo cho “ni cô” và anh Chí. Cơm nước trưa chiều anh Chí tự ra quán
Cây Me ăn cơm bình dân. Tiền hảo tâm do anh em gom góp tôi chêm thêm cho
anh Chí bồi bổ thêm.
Một hôm tôi tới, anh Chí chìa cái thư cho tôi và nói: “Công ty Nhà
Đất vừa đem tới, chú đọc kỹ để rõ tình đời”.
Thư của anh Chí ngắn gọn, nguyên văn: “Kính gởi anh Huỳnh văn Niềm,
Bí thư Tỉnh ủy – Cách đây hơn 3 năm, khi đến thăm tôi, anh nói : “Tôi
sẽ bàn với Ủy Ban Tỉnh ký cho anh cái nhà nầy”. Nếu không có gì thay
đổi, các anh làm giấy cho tôi cái nhà tôi đang ở. Khi có chủ quyền, tôi
sẽ bán nó, lên Sài Gòn tìm mua căn nhà nhỏ trong hẻm để cha con tôi cùng
ở bên nhau. Sức khỏe của tôi ngày một kém, nhất là bịnh viêm phế quản ưa
nghẹt thở bất thường – Nguyễn Hữu Chí”.
Anh Huỳnh văn Niềm bút phê dưới thư anh Chí: “Gởi Nhà Đất – Anh Chí
có yêu cầu lên Sài Gòn ở với con, các anh xuất quỹ cho anh Chí 5 triệu
đồng, thu hồi nhà anh Chí đang ở lại cho chúng ta” – Huỳnh văn Niềm.
– Vậy là Nhà Đất đem tiền đến cho anh rồi? – tôi hỏi.
– Không, anh Chí nói: Họ chỉ đem thư và khuyên tôi nên giữ nhà để ở,
chớ 5 triệu đồng mà mua được cái gì. Ý họ hợp với ý tôi. Chuyện cho hay
không cái nhà đối với tôi không phải là chuyện lớn. Đáng nói, đáng buồn
ở đoạn: “Thu hồi nhà anh Chí đang ở lại cho chúng ta” – Vậy vô
hình trung, ông ấy không còn coi tôi là đồng chí hay đồng bọn nữa rồi?!
Tôi thầm nghĩ, anh Chí hiền như cục đất, chẳng lẽ anh cãi cọ và chống án
vụ vợ con anh bị liệt vào loại “cứng đầu”.
Cuối năm 1997, ngân hàng nhà nước – chi nhánh Tiền Giang gởi thông báo
gọi anh Chí đến nhận 700.000 đồng vốn lời tiền gởi tiết kiệm. Câu bọc
chót: “Kỳ hạn trong 15 ngày, kể từ ngày ra thông báo nầy, nếu đương
sự không đến nhận tiền, ngân hàng sẽ xung số tiền ấy vào công quỹ”.
Anh chí đến ngân hàng trả lại thông báo và nói:
– Các anh lộn tôi với ai rồi đó ? – tôi đâu có gởi.
– Hay là Chị gởi ? – ngân hàng đặt vấn đề.
– Vợ tôi đã chết hơn 10 năm rồi!
Vì không nhận nên giả vờ không biết, anh đoán chắc đó là tiền tòa xử bên
bị “hỗ trợ” cho bên nguyên trong vụ vợ con anh tử nạn mà anh không nhận
trước đây, người ta lấy tên anh gởi nó vào ngân hàng, lãi mẹ đẻ lãi con.
Anh thắc mắc: “Kỳ lạ, ngân hàng nếu không nhận vay số tiền ấy thì
khoanh nó lại (không chịu lãi) chớ đâu có quyền xung nó vào công quỹ –
việc ấy thuộc chính quyền?” – Đã không nhận nói làm gì, xung đâu đó
thì xung.
Sau 5 năm đeo bám học đường, Thông tốt nghiệp Đại học Bách khoa – khoa
Mỹ thuật Công nghệ, xin được việc làm ở Nhựa Sài Gòn, lương tháng 4
triệu đồng. Thông ngỡ “đêm đã qua, bình minh đến”, không ngờ, chứng bịnh
viêm phế quản và suy hô hấp của cha ngày thêm trầm trọng, chu kỳ nghẹt
thở nhặt hơn, mỗi khi lên cơn phải dùng phương tiện xịt khai thông phế
quản.
Bịnh nghẹt thở mà ở một mình dễ chết khi lên cơn, Thông đến trại điều
dưỡng cán bộ Sài Gòn nói rõ hoàn cảnh và xin cho cha mình được làm thành
viên của trại. Khi được chấp nhận, từ Sài Gòn, Thông mướn xe về Mỹ Tho
rước cha lên nhập trại. Ở trại có nhiều người cùng cảnh chuyện vãn, anh
Chí vui và thoải mái hơn. Hàng ngày anh đóng 50 ngàn đồng phí ăn nghỉ và
kiểm tra sức khỏe. Sau giờ làm, Thông về trại chăm sóc cha, tạo sự sum
hợp dù tạm bợ.
Tháng 10/1999, cơ quan Nhà Đất gặp tôi nói: “Tỉnh chủ trương phát mãi
số nhà còn lại thuộc diện Nhà nước quản lý - nhà anh và nhà Chí thuộc
diện đó. Chúng tôi nhờ anh báo chủ trương nầy với ông Nguyễn Hữu Chí. Dù
mua hay không cũng báo cho chúng tôi biết”.
Sau khi nghe tôi báo, anh Chí nói: “Nếu không cho mướn nữa thì lấy
lại, tôi không có tiền mua”. Tôi phân tích thiệt hơn, cuối cùng anh
Chí chịu mua, nhưng mọi thứ nhờ tôi.
Sau bước thuận mua, tôi nhờ Công ty kinh doanh Nhà Đất tính giá và làm
giấy tờ nhà anh Chí. Qua bước thăm dò, tôi gọi Thông về Mỹ Tho, bảo nó
đến nhà đại lý giấy số, liên cư với nhà nó, ngã giá bán nhà. Lợi thế mặt
tiền, liên cư, họ chịu nhận mua với giá 58 lượng vàng. Theo giao kèo, họ
đưa trước 10 lượng để làm giấy tờ. Với 10 lượng vàng ấy, Thông đem bán,
trả tiền nhà cho Nhà nước 33 triệu (đã trừ chính sách), phần còn lại đủ
đóng thuế trước bạ và phí tổn đo đạc, làm giấy tờ.
Với 48 lượng vàng dôi ra (còn lại), Thông lên
Sài Gòn mua được căn nhà mới xây trong hẻm, diện tích xây dựng 40m2 gồm
1 trệt, 1 gác lửng. Làm thủ tục giấy tờ, tiền bạc trả xong, còn 5 ngày
nữa mới nhận nhà, anh Chí ngã bịnh nặng phải chở đến bịnh viện Chợ Rẫy
cấp cứu rồi qua đời như đã nói ở phần I.
III.
Theo giao hẹn, sáng hôm sau, một mình với chiếc mô-tô hiệu Honda tòng
tọc, Thông đến cùng người lò thiêu gom xương tro từ xác cha mình đang
nằm gọn trong khay cho vào hũ, hũ cho vào cái túi mà Thông đã cụ bị từ
tối qua.
Trên đường về, Thông phải cho xe ép sát lề nhường đường cho đoàn xe tang
bề thế đi ngược chiều. Xe chở quan tài rề rề đi trước, “làng nước” trên
xe, dưới bộ thụ động theo sau – tất cả cùng tốc độ với người đi bộ. Âm
lượng dàn nhạc chát tai, liên hồi trổi lên âm điệu thê lương, khiến cho
bất cứ ai trong tầm âm thanh của nó đều phải để ý. Gần nửa tiếng đồng hồ
họ mới dứt đuôi, để lại sau biết bao là Đô-la “âm phủ” rơi vãi trên mặt
đường. Nhìn toàn cảnh đám tang bề thế, nhìn lại cái túi đựng hũ tro cha
mình, Thông chạnh lòng, mệt mỏi đẩy xe ra, về nơi ở trọ.
Chưa đến ngày nhận nhà, sợ người ta rầy, Thông không cho ai biết hũ tro
nầy. Khi đi làm mang nó theo, khi về nơi trọ giấu nó dưới gầm giường. Cứ
thế, đến khi nhận nhà, Thông lập chỗ thờ, đưa hũ tro lên cho yên chỗ.
Chừng tháng sau, Thông trở lại Mỹ Tho, ghé nhà tôi giữa trưa Hè nắng đổ
lửa. Nó vừa rửa vừa láp váp với tôi: “Hồi sáng tới giờ, cháu đào gốc,
chặt rễ, đổ dầu hôi diệt gốc cây Me Keo to tướng, rễ nó ăn ruồng vào mộ
mẹ và em cháu. Nghe nói khu nghĩa địa Bình Đức Nhà nước đã quy hoạch, sẽ
giải toả lấy đất làm gì đó. Khi có lịnh giải tỏa, cháu sẽ lấy cốt mẹ và
em cháu đem thiêu, cho vào hũ, đưa lên bàn thờ chung với cha cháu, để
người sống, người chết bên nhau”.
Thông ăn cơm, tôi xề bên đưa cho nó tiền 3 tháng lương cuối đời và tiền
mai táng phí của cha nó. Nó nhận rồi lần lượt trả lời những câu hỏi của
tôi: “Cháu vẫn làm ở Nhựa Sài Gòn, lương tháng hơn 4 triệu đồng, có
nhà, có xe gắn máy, có điện thoại cố định và di động… Đặc biệt, cháu đã
sắm được dàn vi tính làm phương tiện tạo mẫu bán tăng thu nhập. Còn vợ
thì đã chọn, khi nào cưới chắc phải nhờ chú hoặc chú Yên đại diện đàng
trai?”.
Sẵn sàng !… – tôi nói.
Viết từ Mỹ Tho
Thiện Tùng
Tác gi
|