TIẾNG DÂN
Đảng sẽ tiếp tục thu hoạch được gì từ cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”?
Lê Quang Ngọ và Lê
Quí Trọng Hồ
Chí Minh là cha đẻ của chính quyền Cộng sản Việt nam hiện nay. Mặc dù
ông ta đã về với Karl Marx và Lenin hơn nửa thế kỷ qua, nhưng cuộc đời
và sự nghiệp của ông không bị lớp bụi thời gian che phủ mà vẫn tiếp tục
được thần thánh hóa để phủ bóng lên đời sống chính trị và xã hội của đất
nước.
Những người kế tục sự nghiệp của ông Hồ luôn đề cao tên tuổi ông để mọi
người cùng học tập và noi theo, thậm chí từ tháng 11/2006, đảng bắt đầu
tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh“, nhằm “Tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội” để “nâng cao đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội”
(1). Suốt
15 năm qua, đảng liên tục ban hành nhiều văn bản về vấn đề này. Từ “tiếp
tục đẩy mạnh” đến “đẩy mạnh” trong đó “có nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc nêu gương”của các cán bộ chủ chốt các cấp” (2).
Vì sao Đảng phải quan tâm nhiều đến công việc này như vậy? Bài viết này
cung cấp cho độc giả một cái nhìn khách quan về một “tấm gương” mà những
người Việt trên mảnh đất hình chữ S đã, đang và sẽ phải tiếp tục học
tập. Như
mọi người đã biết, giống như những lãnh tụ cộng sản bậc thầy của mình,
Hồ Chí Minh sau khi yên vị trên đỉnh cao quyền lực, đã làm mọi biện pháp
để những cán bộ đảng viên thuộc quyền, trở thành những con cừu thuần
trắng, nhằm thuận lợi cho công tác lãnh đạo và duy trì sự toàn trị của
đảng. Do đó, ông thường dạy họ phải chống chủ nghĩa cá nhân, bởi “Chủ
nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không
quan tâm đến lợi ích chung của tập thể” và “là kẻ thù hung ác của
đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội” (3). Nhưng ông Hồ lại không
né tránh, mà còn mặc nhiên thừa nhận sự sùng bái cá nhân dành cho ông. Ngay
sau những ngày thành lập nước, ông đã chấp nhận và khuyến khích các nhạc
sĩ sáng tác các bài hát ca ngợi ông. Dù rằng thời gian này phần lớn
người dân Việt còn chưa biết người đứng đầu chính quyền mới là ai, cần
phải có sự tuyên truyền, nhưng dần dà nó bị biến thành tôn sùng lãnh tụ.
Trào lưu “Nghệ thuật vị nhân sinh” trong những năm ở chiến khu đã hướng
một phần đề tài vào hình tượng Hồ Chí Minh, các họa sĩ đến vẽ ông để
khỏi mai một tay nghề ở nơi rừng sâu núi thẳm. Sau
năm 1954, để được nổi danh cũng như để bày tỏ lập trường trước đảng,
nhiều văn nghệ sĩ đã lấy sự nghiệp của ông làm đề tài sáng tác. Những
người từng có thời gian hoạt động với ông, đua nhau viết hồi ký in thành
sách. Nhật ký trong tù của ông được các nhà Hán học và các nhà
thơ dịch sang tiếng Việt cùng với những lời bình có cánh để người dân
biết được những vần thơ uyên thâm của ông. Hoài
Thanh và Thanh Tịnh đã phải lặn lội về Nghệ An để tìm hiểu và viết cuốn “Quê
hương và thời niên thiếu của Bác”. Những cuốn sách có chung đề tài
về Hồ chí Minh cùng “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch” mà ông là tác giả, dưới bút danh Trần Dân Tiên và “Nhật ký
trong tù” được ông nhận là của mình, đã được bày trên các kệ sách
của các hiệu sách Nhân dân nghèo nàn về lượng đầu sách lúc đó. Mỗi
dịp giáp tết, ngoài các ảnh chân dung và tượng bán thân bằng thạch cao
của ông đã có sẵn, người ta còn bày bán các bài thơ chúc tết của ông,
được in chữ đỏ trên nền giấy màu hồng, cùng các bức ảnh chụp ông trong
nhiều mô típ để người dân mua về trang trí tết. Là
“Cụ”, rồi là “Bác” của mười bảy triệu dân Bắc Việt, nhưng ông còn muốn
hình ảnh của ông được ghi sâu đậm trong lòng dân bằng cách trao tặng Huy
hiệu Bác Hồ cho những người có những gương làm việc tốt trong thời gian
từ năm 1959 đến năm 1969. Đến nỗi “Hồi đó, miền Bắc Việt Nam đã dấy
lên phong trào thi đua ‘nhà nhà làm việc tốt, người người làm việc tốt’
để mong được đón nhận Huy hiệu Bác Hồ” (4). Huy
hiệu này lấy khuôn mẫu quốc huy Việt Nam DCCH thay ngôi sao vàng năm
cánh trên nền đỏ bằng hình bán diện Hồ Chí Minh được dập nổi. Việc đưa
hình ảnh của mình vào quốc huy để làm phần thưởng, nhằm khuếch trương uy
tín cá nhân, là một sự ngạo mạn đến mức cực đoan của người mắc bệnh công
thần nặng nhất chế độ này. Về hình thức trông nó còn bắt mắt hơn cả huân
chương Hồ Chí Minh – huân chương bậc cao thứ nhì của nhà nước Việt Nam
do chính ông Hồ ký sắc lệnh ngày 6/6/1947.
Quốc huy Việt Nam DCCH và Huy hiệu ‘bác Hồ’ Huy
hiệu này có giá trị tương đương với huân chương Chiến công và huân
chương Lao động, những vật phẩm của nhà nước dùng để trao tặng cho những
cá nhân và đơn vị có những thành tích xuất sắc trong công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước, như phi công Phạm Thanh Ngân, được nhận 8 huy hiệu
cho 8 lần bắn rơi máy bay Mỹ và Anh hùng lao động Phạm Thị Vách, 2 lần
được nhận “huy hiệu Bác Hồ”… Ngày
9/5/1961, Hồ Chí Minh đến thăm đảo Cô Tô và sau đó được chính quyền tỉnh
Hải Ninh (cũ) xin phép được dựng tượng ông trên đảo này. “Được lời
như cởi tấm lòng”, ông đã vui vẻ đồng ý và bắt đầu từ đây, bức tượng
của ông như một tế bào ung thư hình thành và theo thời gian đã di căn ra
khắp các tỉnh thành trên cả nước, khiến cho Việt Nam ngày nay trở thành
cường quốc về tượng đài lãnh tụ. Hồ
Chí Minh thường bỏ nhiều tâm huyết để dạy các đảng viên của mình về “đạo
đức cách mạng”, nhấn mạnh bốn điểm chính, gồm: “Cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư”. Ngoài ra, ông còn nói: “Người ta ai cũng
muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc
nhân dân còn khó khăn, một người nào đó muốn sống hưởng ăn ngon, mặc đẹp
thì không có đạo đức” (5).
Những người có hân hạnh gặp ông và được dùng cơm cùng ông, kể lại trên
phương tiện truyền thông về cuộc sống bình dị của ông, đôi khi thái quá,
làm cho độc giả hiểu sai tác dụng của công tác tuyên truyền. Nhưng họ
đâu có biết, chính họ đã được sử dụng làm phương tiện đánh bóng tên tuổi
ông. Bởi những bữa ăn như vậy, cũng giống như những bữa ăn chay của các
phật tử vào ngày mùng một và ngày rằm âm lịch hàng tháng. Nếu
ông ăn uống thực sự thanh đạm như vậy, ông đâu cần phải có một người đầu
bếp riêng từ năm 1951 đến năm 1969, tên là Đinh Văn Cẩn, được Pháp đào
tạo nấu giỏi cả cơm Tây lẫn cơm Việt. Phạm Văn Đồng cũng có một đầu bếp
riêng thạo nấu cơm Tầu, tên là Đặng Văn Lơ. Tuy nhiên, hai người này
cùng nhau hợp tác để các món ăn của hai vị lãnh đạo luôn được thay đổi
cho ngon miệng (6). Mỗi
lần ông sang Trung Quốc nghỉ ngơi dưỡng bệnh, thì có đầu bếp Thiệu Vinh
Lễ nấu riêng cho ông. “Ăn cơm tàu” nhưng ông không “ở nhà Tây”
bởi tình yêu đất nước của ông khác người, cho nên không gian sống của
ông ở đó cũng thật đặc biệt. Theo báo “lề đảng”, tại khách sạn
Tùng Hóa ở ngoại ô thành phố Quảng Châu hiện còn lưu giữ “kiến trúc
khu nhà Bác ở gần như vẫn nguyên vẹn, từ phòng làm việc, phòng ngủ,
phòng khách đến gian bếp, phòng ăn, kể cả sàn nhà lát bằng gỗ đem từ
Việt Nam sang” (7), điều đó có thể bắt nguồn từ nỗi nhớ miền Nam của
ông, khiến cho những người cảnh vệ đã phải bứng cả cây vú sữa cách đó 20
– 30 bước chân, đưa về trồng ngay cạnh cửa sổ nhà sàn của ông để ông
được nguôi ngoai (8). Được
phục vụ bởi những người đầu bếp tay nghề cao như vậy chắc chắn ông là
một người rất sành sỏi và tinh tế trong văn hóa ẩm thực, với những món
ăn đặc sắc Á, Âu. Nếu ai đó không đồng ý với quan điểm này, hẳn họ phải
thừa nhận ông đã sai lầm khi phí phạm tài năng trong công tác nhân sự. Theo
lời kể của Vũ Kỳ, thư ký của ông Hồ, đoạn mở đầu di chúc được ông viết
vào mặt sau của tờ Tin tham khảo đặc biệt, nhưng trong hồi ký của mình
Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi
kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng một
đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm
để bảo vệ. Họa sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc thấy
ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (Người ta
nuôi một con bò để lấy sữa cho ông)”… Và “ông Hồ ở Phủ Chủ tịch,
thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravat, chống baton đi dạo một lúc
trong khuôn viên cho đỡ nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris” (9). Hồ
Chí Minh là người có tài thu phục nhân tâm và dùng người, bài hát Kết
Đoàn thường được ông sử dụng để kêu gọi mọi người đồng lòng chung sức vì
sự nghiệp cách mạng theo phương châm đã được ông đề ra: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Nhưng
trong thực tế, ông không thành công trong việc gắn kết những người thân
cận nhất của ông thành một khối thống nhất. Theo
hồi ký Hoàng Tùng, ông có 10 nỗi đau, trong đó “Nỗi đau thứ bẩy là sự
bất hoà giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc đều êm đẹp
cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mỹ, nhưng quan điểm quốc tế
không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi… Tôi được
biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bẩy, Bác lại cho làm cơm và nói: ‘Mấy
chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra,
không nên để bụng’. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư ký cho những cuộc đó
cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ
cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì” (10). Thế
mới biết CNCS mà ông Hồ mang về cho dân tộc ta thật khó thành hiện thực,
những con người được ca ngợi là “học trò xuất sắc” của ông, rốt
cuộc cũng vẫn chỉ là những cỗ máy sinh học phức tạp không thể vượt qua
được cái tôi, cho nên họ không thể giống những chiếc đồng
hồ qua bàn tay chế tác của người thợ tài giỏi sau khi lên dây cót xong
là vận hành được chính xác. Để
mọi người hiểu rõ các chặng đường đi trên con đường mà ông đã định
hướng, Hồ Chí Minh giải thích: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ
mới, tiến dần lên CNXH”. Đó là thời kỳ “xóa bỏ triệt để các tàn
tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng các
mầm mống cho CNXH phát triển” (11). Theo ông: “Bước đi trong xây
dựng XHCN ở nước ta là ‘phải làm dần dần’, ai nói dễ là chủ quan và sẽ
thất bại, phải thực hiện ‘đi bước nào vững chắc bước ấy’”. Như vậy
nó khác hẳn với mục tiêu “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội” mà đại hội đảng lần 3 đề ra. Chắc
là vì vậy nên đến nay, sau 60 năm tiến lên CNXH, mặc dù mắc bệnh kêu
ngạo cộng sản nặng, người đứng đầu đảng mới đây cũng phải thừa nhận: “Về
xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y
tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức
xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức
tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng
chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên” (12). Mặc
dù vậy, nhưng ônng TBT đảng vẫn khẳng định: “Điều hết sức quan trọng
là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt
để của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền
vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện”. Bởi
theo di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác – Lê-nin “là cái
‘cẩm nang’ thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời
soi sáng con đường chúng ta đi với thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản” (13). Đúng
là vào thời điểm đó nó là cứu cánh giúp ông có vương quyền, nhưng nó
không giúp cho đất nước ông, cũng như các nước trong khối cộng sản, phát
triển thịnh vượng về đủ các phương diện, cho nên nó đã bị loài người vứt
bỏ 30 năm qua. Sau khi khối Đông Âu sụp đổ thì công cuộc xây dựng CNXH ở
Việt Nam, dù ông có tái sinh để chỉ đạo, thì cũng bất khả thi như sự
quản lý đất và người trên quần đảo Hoàng Sa của thành phố Đà Nẵng, cho
dù chính phủ đã có quyết định thành lập nó thành huyện đảo Hoàng Sa từ
năm 1997. Là lãnh tụ cộng sản dày
dặn kinh nghiệm, cộng với sự nhạy bén chính trị, về cuối đời, hẳn Hồ Chí
Minh đã nhận thấy được những cái bất cập trong lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa này. Bởi nếu nó hoàn hảo thì không có những người phê phán nó
sau khi nó ra đời, không có cuộc nổi dậy tại Đông Đức năm 1953, không có
sự kiện năm 1956 ở Hungary, không có Mùa xuân Praha năm 1968 và cũng như
ở Việt Nam không xảy ra vụ án chống đảng năm 1967 và chắc chắn ông cũng
đã linh cảm được sự thoái trào của CNCS bởi những lãnh tụ “đồng sàng
dị mộng”. Sự
đau lòng của ông đối với phong trào cộng sản thế giới mà ông ghi trong
di chúc, giống như tâm trạng của một chủ doanh nghiệp đồng thời là cổ
đông lớn, đang nhìn thấy cổ phiếu của ngành mà ông ta đặt mua cổ phần,
ngày càng tụt dốc trên sàn chứng khoán thế giới.
Không chỉ có mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh cũng là
người “tiền hậu bất nhất” – mà ngày nay người ta gọi là ‘tự diễn biến’ –
cả trong cách đối nhân xử thế. Nhiều thế hệ người Việt được đào tạo dưới
mái trường XHCN, hẳn đã từng có lần làm bài văn nghị luận về câu nói của
ông: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài
thì làm việc gì cũng khó”. Nhưng hình ảnh mà ông dẫn chứng “Nếu
có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không
có ích gì cho loài người” (14) thì khó được chấp nhận. Bởi chữ Bụt
có nguồn gốc chữ Phạn: Buddhã, chính là Phật trong tiếng Hán.
Trong thời gian hoạt động ở Thái Lan ông đã từng nương nhờ cửa Phật, tự
cắt tóc làm sư Hạnh Đa để tránh bị truy lùng và dễ bề hoạt động trong
cộng đồng Việt kiều tại đây (15). Năm 1947, trong thư Gửi Hội Phật tử
Việt Nam, ông đã viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn,
muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn. Nguời phải hy sinh đấu tranh, diệt
lũ ác ma” (16) và tại chùa Bà Đá, ngày 5/1/1946, ông đã từng cầu
nguyện trước tượng Phật và cũng đã từng nhắc nhở các nhà sư “ra sức
cầu Phật cho kháng chiến chóng thành công” (17). Là
môn đồ của Marx, chắc chắn câu nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân” đã làm cho ông, một người ưa dùng bạo lực cách mạng có một cái
nhìn sai lệch về tôn giáo này khi ông đã thành công và qua đó cũng không
chỉ thể hiện sự vô ơn, mà còn biểu hiện căn bệnh kiêu ngạo cộng sản trầm
kha của ông. Căn
bệnh này được thể hiện vào năm 1951 theo lời kể của Hoàng Tùng: “Trong
một cuộc họp Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin không được như thế
đâu, chỉ vì người ta cần có một ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác
biết rõ Stalin. Người không sùng bái, cũng như không sùng bái Mao Trạch
Đông. Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao”. Thế mà trước đó một năm ”
ông đã công khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc
để chuẩn bị cho đại hội 2 của ĐCS sẽ họp năm sau là: ‘Các cô các chú nên
biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao
Trạch Đông thì không thể nào sai được’.” (18) Có
một điều khó hiểu là một người coi thường Phật giáo như vậy mà tượng của
ông ngày nay lại được đưa vào trong các nhà chùa để thờ phụng. Phải
chăng Phật giáo Việt Nam đã và đang bị chế độ cộng sản thao túng? Với
ý chí và nghị lực, cùng với sự nhạy bén nắm bắt thời cơ, Hồ Chí Minh đã
vượt qua muôn ngàn hiểm nguy để đạt tới tột đỉnh vinh quang. Là con
người trần tục, ông có thể đã có một cuộc sống thật viên mãn lúc đã công
thành danh toại, tận hưởng hạnh phúc cá nhân muộn mằn khi đã về già ngồi
trên ngôi báu, nhưng ông không có đủ bản lĩnh để khước từ những gì mà
đảng đã ưu ái dành cho ông. Là nô lệ của danh vọng ông đã tự nguyện gạt
bỏ hạnh phúc cá nhân để nhập vai thành một đấng toàn tri, toàn giác của
đảng.
Trong di chúc của mình ông mong muốn, sau khi chết nhà nước không “tổ
chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân
dân”, nhưng ông đã không phản đối khi biết nguyện vọng cuối đời của
ông không được thực hiên. “Theo lời kể của con trai cả của Bí thư Lê
Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu
dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy Hồ Chí Minh
trở nên trầm ngâm” (19). Theo
triết gia Aristotle, hai điều trái ngược không thể tồn tại lâu dài trong
một chủ thể, như vậy sự trầm ngâm này phản ánh cuộc đấu tranh nội tâm
gay gắt của ông, nó giống hệt như cuộc đấu tranh “ai thắng ai” (20)
đã được ông phân tích, giao giảng trước mọi người nhiều năm trước đó. Vậy
theo độc giả, trước khi chúng ta vẫn còn bị đảng tuyên truyền, giáo dục
theo định hướng, có nên xin tiến
sĩ Bùi Trường Giang, phó ban Tuyên giáo TƯ, tư vấn câu hỏi đang
được bỏ ngỏ này: Đảng sẽ tiếp tục thu hoạch được gì từ cuộc vận động
“Học tập đạo đức Hồ Chí Minh”?
______
Chú thích: 4- https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy_hi%E1%BB%87u_B%C3%A1c_H%E1%BB%93 5- https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/8953-hoc-bac-tu-nhung-dieu-binh-di-phan-1.html 6- https://vtc.vn/nguoi-dau-bep-va-nhung-chuyen-thu-vi-ve-bua-an-cua-bac-ho-ar220540.html 7- https://www.vietnamplus.vn/nhung-lan-sinh-nhat-bac-qua-loi-ke-cua-dau-bep-trung-quoc/322190.vnp 8- https://www.youtube.com/watch?v=Y_DV8QbAFHY (phút
14:00 – 14:45) 9- https://www.wattpad.com/107760-hoi-ky-nguyen-dang-manh/ (Hồi
ký Nguyễn Đăng Mạnh Chương VII: Hồ Chí Minh (trang 121-131) 10- https://www.diendan.org/viet-nam/tu-lieu-hoang-tung-1920-2010-noi-ve-ho-chi-minh 13- https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/con-duong-dan-toi-den-chu-nghia-lenin.htm 14- https://bqllang.gov.vn/danh-sach-khach-vieng.html?id=3241:nhung-cau-noi-hay-cua-bac-phan-1 (câu
18 và câu 25) 16- http://clb.tinhnguoi.vn/goc-yeu-thuong?baiviet=Chu-Tich-Ho-Chi-Minh-voi-dao-Phat-pid53.html 17- http://quehuongonline.vn/con-nguoi-viet-nam/minh-triet-ho-chi-minh-voi-phat-giao-13744.htm 18- https://www.rfa.org/vietnamese/binhluan/Land_Reform_P4_NMCan-20060520.html 19- https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh |