THỐNG ĐỐC BÌNH CÓ MẮC CHỨNG
HOANG TƯỞNG VĨ CUỒNG?
Trần Ngân
Đặt ra câu hỏi này chắc hẳn sẽ làm nhiều người ngạc
nhiên vì làm sao đương kim thống đốc ngân hàng trung ương của một
quốc gia lại mắc chứng bệnh hoang tưởng vĩ cuồng vốn là một loại
bệnh tâm thần được. Tác giả bài này không phải là một chuyên gia tâm
thần học nên đây cũng chỉ là nhận định mang tính chủ quan dựa trên
những phát ngôn của thống đốc trên báo chí.
Đầu tiên, một người mắc chứng “hoang
tưởng” có những triệu chứng gì?
Hoang tưởng tự cao là dạng rối loạn thường gặp, bệnh
nhân cho rằng mình có tài năng xuất chúng nhưng chưa được công nhận.
Bệnh nhân bị hoang tưởng có một niềm tin, một kết luận hoàn toàn sai
với sự thực nhưng lại được người bệnh tin tưởng một cách tuyệt đối,
không thể bác bỏ được. Do đó, người thân không thể thuyết phục người
bệnh là họ sai, cũng không thể lên án người bệnh vì niềm tin
tuyệt đối đó (VTC
21-05-2010)
Vậy tại sao tác giả của bài này lại cho rằng thống
đốc Bình có những triệu chứng của bệnh hoang tưởng theo như định
nghĩa ở trên. Chúng ta hãy lấy hai phát ngôn thuộc hàng “nổi tiếng”
nhất của ông làm ví dụ:
"Người ta tìm ra bộ 3 bất khả thi giữa tăng trưởng,
lạm phát và tỷ giá, ông đó được quốc tế cho giải thưởng Nobel. Vậy
mà hiện nay chúng ta phải vừa làm sao kiềm chế được lạm phát mà vẫn
phải tăng trưởng. Tôi đã có lần nói đùa với Chủ tịch Quốc hội là em
chỉ cần nửa giải thưởng Nobel cũng được, nếu em làm được một trong
hai", ông nói. (VnExpress
23-11-2012)
Ông Nguyễn Văn Bình chia sẻ: Hơn một năm qua, trong
công việc mình chưa bao giờ nản lòng nhưng buồn thì có nhất là những
khi đồng đội không hiểu, dư luận thì nghi hoặc. Có lần trong cuộc
họp, một thành viên đã ví mỗi một ủy viên Trung ương là một ngôi
sao, mình lên phát biểu liền bảo tôi không nghĩ mình là “sao” nhưng
nếu có thì chắc “tôi là ngôi sao cô đơn”.
(Tiền
Phong 10-2-2013)
Như vậy, trong hai phát biểu ở trên, dù chỉ là “nửa
đùa nửa thật”, thống đốc đã cho rằng mình xứng đáng được “nửa giải
Nobel” và cũng tự cho mình là “ngôi sao cô đơn”. Tất nhiên người
bênh thống đốc có thể nói rằng đây chỉ là cách nói ví von nhưng trên
thực tế, nếu trong đầu thống đốc không nghĩ tới điều đó nhiều lần
thì khi ra trước diễn đàn Quốc hội và trong một cuộc trả lời phỏng
vấn báo chí nghiêm túc thống đốc không thể nói ra điều đó. Trong
đoạn trên, có thể thấy thống đốc cũng nói: “nhưng
buồn thì có nhất là những khi đồng đội không hiểu, dư luận thì nghi
hoặc”.
Như vậy, thống đốc đã có biểu hiện của triệu chứng về
bệnh hoang tưởng đã nói ở trên là:
“Hoang tưởng tự cao là dạng rối loạn thường gặp, bệnh
nhân cho rằng mình có tài năng xuất chúng nhưng chưa được công
nhận”.
Trong bài phỏng vấn dưới đây, thống đốc Bình cũng tự
khen mình là người “có kiến thức kinh tế, vừa bao quát, vừa chuyên
sâu, từng trải, bản lĩnh…”:
Như lời một bài hát đã viết mà tôi rất tâm đắc: “Ai
cũng chọn việc nhẹ nhàng thì gian khổ biết dành phần ai”. Dù là “ghế
nóng” nhưng nhất định là phải có ai đó ngồi vào để gánh vác trọng
trách đó. Làm ngân hàng là một nghề, đòi hỏi có kiến thức kinh tế,
vừa bao quát, vừa chuyên sâu, từng trải, bản lĩnh và cả sự nhạy cảm
nữa. (VnEconomy
7-2-2013)
Chỉ có điều người “có kiến thức kinh tế, vừa bao
quát, vừa chuyên sâu” lại phát biểu sai về “bộ ba bất khả thi”, là
kiến thức cơ bản mà bất kỳ sinh viên chuyên ngành kinh tế nào cũng
phải biết, trên diễn đàn Quốc hội (nói thêm là thống đốc có bằng TS
kinh tế tốt nghiệp ở Nga dù theo TS Lê Hồng Giang thì luận án của
thống đốc Bình giống với Kinh tế chính trị hơn là kinh tế):
Chẳng hạn, khi nói về “bộ ba bất khả thi”, thống đốc
dẫn ra ba yếu tố là tăng trưởng, lạm phát và tỉ giá để cho rằng
không thể đồng thời thực hiện ba mục tiêu này. Tuy nhiên, thật ra
“bộ ba bất khả thi” đề cập tới ba mục tiêu là ổn định tỉ giá, tự do
hóa dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Như vậy, thống đốc hoặc
chưa hiểu chính xác về lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, hoặc cố lấy sự
thông cảm để né câu hỏi của đại biểu (Tuổi
Trẻ 17-11-2012)
Trong bài trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Việt Nam
dẫn ở trên, khi nói về chính sách quản lí vàng của NHNN, thống đốc
Bình có nói:
Chúng tôi biết trước là sẽ bị phản đối quyết liệt
nhưng không làm không được. Bởi con đường đã đi thì phải đi, đích
đến vẫn phải đến. Sự chống đối của nhóm lợi ích có mặt khắp nơi, từ
vận động hành lang chính sách đến các công cụ truyền thông, thậm
chí, còn mượn cả “dân” để làm bình phong. Nếu không tin tôi thì cứ
đi hỏi xem dân nào có đủ tiền đến mức lũng đoạn cả thị trường vàng?
Chỉ những người buôn bán vàng đầu cơ mới quen làm mưa, làm gió thị
trường, gây bất ổn cho kinh tế vĩ mô, bị đụng chạm lợi ích trong lần
này thì mới bị thiệt hại thôi.. (VnEconomy
7-2-2013)
Chính sách quản lí vàng của NHNN với những phát kiến
rất “độc đáo”, rất “Việt Nam” (tức là chẳng giống ai) đã bị rất
nhiều chuyên gia phản đối với những lập luận, dẫn chứng hết sức
thuyết phục. Chẳng hạn TS. Ngô Trí Long trong bài dưới đây đã nói rõ:
Từ góc độ Nhà nước, Việt Nam đang quản lý thị trường
vàng theo kiểu “một mình một chợ”, thiếu hội nhập và liên thông với
thế giới. Cả trong quá khứ và hiện tại, trên thế giới chưa một ngân
hàng trung ương nào có chính sách chỉ duy trì một thương hiệu vàng
và độc quyền sản xuất vàng miếng. Việc quản lý này đã lẫn lộn giữa
chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước điều tiết thị trường bằng biện
pháp hành chính, mệnh lệnh (cấp giấy phép chuyển đổi, quản lý máy
móc sản xuất của doanh nghiệp...), bỏ qua các yếu tố cung cầu của
thị trường dẫn đến bế tắc trong sản xuất và lưu thông. Điều này đã
tạo ra khan hiếm cung - cầu giả tạo.
Giá trong nước gần đây cao hơn 3-4 triệu đồng/lượng
so với giá quốc tế. Trong lịch sử thế giới cũng như Việt Nam chưa
từng có sự chênh lệch vô lý như vậy. (VnEconomy
27-12-2012)
TS Hoàng Công Gia Khánh, Trưởng khoa Tài chính ngân
hàng Trường ĐH Kinh tế-Luật cũng cho biết:
Theo nguyên tắc chung trong quản lý vàng và kinh
nghiệm ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada, Nhật Bản…
đều đã tự do hóa thị trường vàng từ rất lâu.
Còn như ở Ấn Độ và Trung Quốc:
sau cải cách, cơ quan nhà nước vẫn quản lý sản xuất,
bán buôn, bán lẻ vàng nhưng đều được thực hiện theo cơ chế minh bạch
và hoàn toàn không có sự độc quyền dù là độc quyền nhà nước hay tư
nhân. Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt
trên cơ sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình
trạng nhập lậu. Ngân hàng trung ương hoàn toàn không tham gia
trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu, sản xuất. Chính sách quản lý
được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, thông thoáng nhằm tạo
được sự liên thông thị trường trong nước với thị trường nước ngoài
khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện. (Pháp
Luật TPHCM 20-1-2013)
Tức là ở trên thế giới hiện nay, không có Ngân hàng
Trung ương nào lại đi quản lí thị trường vàng theo mô hình hiện nay
ở Việt Nam mà thống đốc Bình tự chế ra cả. Nhiệm vụ của NHTW ở bất
cứ nước nào quan trọng nhất là kiểm soát lạm phát và có thể thêm mục
tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với nguồn nhân lực và khả năng có
hạn, NHNN ở Việt Nam thực hiện được hai mục tiêu trên đã rất khó
rồi, tự dưng bây giờ lại ép buộc để sinh ra một thương hiệu vàng độc
quyền quốc gia, tham gia kinh doanh, mua bán, cấp phép… trên thị
trường vàng. Đây là mô hình trên thế giới cả các nước phát triển và
đang phát triển không đâu có cả, chỉ do thống đốc Bình và êkíp nghĩ
ra rồi tự cho là hoàn hảo, tốt hơn kinh nghiệm của thế giới. Chỉ
riêng điều này đã cho thấy mô hình quản lí vàng như vậy chắc chắn sẽ
thất bại, làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi người dân khi phải mua
vàng giá cao, bán vàng giá thấp, ảnh hưởng tới hàng ngàn tiệm vàng
trên cả nước… Chính sách này chắc chắn sẽ gây di hại hết sức lâu dài
tới nền kinh tế. Cũng TS. Ngô Trí Long viết:
Trước đây, căn cứ Nghị định 174/1999/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số
64/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 174/1999/NĐ-CP, Ngân hàng
Nhà nước đã cấp phép sản xuất vàng miếng cho 8 ngân hàng và công ty
vàng. Mỗi đơn vị đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng đầu tư máy móc, trang
thiết bị, nhưng nay chỉ sau khoảng 10 năm đã trở nên vô giá trị do
Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định độc quyền sản xuất vàng miếng
từ 25/5/2012.
Chưa kể hàng nghìn lao động trở thành thất nghiệp do
hoạt động của các đơn vị nói trên bị đình chỉ, thì một biện pháp
hành chính đã gây lãng phí tài sản, nguồn lực của doanh nghiệp -
cũng là tài sản của đất nước, nhân dân mà không có ai đứng ra đỡ hậu
quả.
Sự hình thành mạng lưới các doanh nghiệp, cửa hàng
kinh doanh vàng nhỏ lẻ là xuất phát từ nhu cầu tất yếu của thị
trường, là hệ thống phân phối tự nhiên trên cơ sở cung - cầu xã hội.
Không ai bỏ vốn đầu tư kinh doanh khi thị trường không có nhu
cầu.Việc dẹp bỏ 12.000 doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ đồng nghĩa với
việc tước mất công ăn việc làm của hàng chục nghìn lao động, biến
các doanh nghiệp này trở thành kinh doanh bất hợp pháp, ngoài ý muốn
vì họ vẫn phải tiếp tục tồn tại và nuôi sống chính mình.
(Cafef
19-11-2012)
Nhưng thống đốc Bình lại cho rằng những sự phản đối nói
trên là do biểu hiện của “lợi ích nhóm” không tốt: “Sự
chống đối của nhóm lợi ích có mặt khắp nơi, từ vận động hành lang
chính sách đến các công cụ truyền thông, thậm chí, còn mượn cả “dân”
để làm bình phong.” (đã dẫn ở trên).
Trước những chứng cứ và kinh nghiệm rành rành ở thế
giới mà thống đốc Bình nhất định bịt tai không nghe, lại còn trách
báo chí là không đồng thuận và nói thẳng rằng “Báo chí có chiến
đấu thế, chứ chiến đấu nữa thì kết quả vẫn vậy, cuộc sống là như
thế” tức là thống đốc Bình không cần quan tâm tới điều người
khác nói, dù có chính xác tới đâu mà chỉ cho điều mình làm là đúng:
Tuy nhiên điều mà tôi trăn trở là trong 100% khó khăn
thì báo chí gây ra chiếm 40-50%.
Sự ủng hộ, đồng thuận của báo chí chưa cao,
chạy theo vụ việc đơn lẻ, thổi lên quá đà, tạo dư luận chung của xã
hội không tốt. Báo chí có chiến đấu thế, chứ chiến đấu nữa thì kết
quả vẫn vậy, cuộc sống là như thế. Do đó, năm nay mong báo chí đồng
thuận với Ngân hàng Nhà nước hơn (VTC
25-11-2012)
thì rõ ràng là thống đốc Bình đã có biểu hiện rõ ràng
của triệu chứng hoang tưởng đã nói ở trên:
Bệnh nhân bị hoang tưởng có một niềm tin, một kết
luận hoàn toàn sai với sự thực nhưng lại được người bệnh tin tưởng
một cách tuyệt đối, không thể bác bỏ được. Do đó, người thân không
thể thuyết phục người bệnh là họ sai, cũng không thể lên án
người bệnh vì niềm tin tuyệt đối đó.
Nếu thực sự thống đốc có những dấu hiệu của chứng
bệnh hoang tưởng thì đúng là không thể thuyết phục thống đốc được là
thống đốc đã sai và cũng không thể lên án thống đốc. Tuy nhiên, tôi
chỉ thấy thương cho Việt Nam, đã khó khăn chồng chất vì đồng chí X,
nay lại có một thống đốc mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng và tự sướng
thế này thì rồi nền kinh tế đất nước sẽ đi về đâu?
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 23-2-13 |