TẢN MẠN CHUNG QUANH CUỐN
GIA
ĐÌNH
Trần Văn Chánh
Tôi chọn lối “tản
mạn” luận bàn về cuốn Gia đình
của Phan Thúy Hà là để cho phép mình được tự do nghĩ đâu nói đấy không
cần phải có tính hệ thống mạch lạc khoa học. Khi mới lướt qua cái bìa
sách, do không được thông tin gì trước, tôi cứ tưởng đây chỉ là một cuốn
tiểu thuyết viết về cuộc sống đời thường đầy xáo trộn của các gia đình
người Việt Nam trong thời hiện đại, như khá nhiều tác phẩm hiện nay mà
chúng ta thường thấy trưng bày trong các hiệu sách hoặc được quảng cáo
trên mạng Internet. Nhưng khi lật vào trong, đọc bài “Những nếp nhà
những phận người” của Đại tá-Nhà văn Thái Kế Toại, viết như thay cho lời
tựa sách, mới biết đây là một sách viết riêng về cuộc cải cách ruộng đất
(CCRĐ) vốn có tiếng là kinh thiên động địa và độc ác đã diễn ra ở miền
Bắc Việt Nam khởi đầu lai rai từ 1946 và đạt đến cao điểm trong những
năm 1954-1956.
Đây là một trong
những đề tài lịch sử tôi đã chú ý từ lâu. Sau cuộc triển lãm về CCRĐ do
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội tổ chức vào đầu tháng 9.2014, chỉ mở
cửa được 4 ngày rồi ngưng (thay vì kéo dài cả tháng như dự kiến) có lẽ
vì lý do tế nhị sợ “hiệu ứng ngược”, tôi được đọc mà cảm thấy tay chân
rụng rời hàng loạt bài kể chuyện CCRĐ 70 năm về trước của một số người
vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân, trong số này có vài người là nhà văn,
nhà báo được nhiều người biết. Nếu tập hợp các bài viết lại, chúng sẽ
trở thành một bản cáo trạng đồng thời cũng là tài liệu lịch sử sống động
để các lớp hậu bối Việt
Nay cuốn
Gia đình của Phan Thúy Hà vừa
do NXB Phụ Nữ Việt Nam ấn hành cũng là một tập hợp các bài viết phi hư
cấu/ kể chuyện thật tương tự như trên, gồm tất cả 19 bài, nhưng do tác
giả bỏ rất nhiều công phu đi hỏi chuyện các chứng nhân trong 19 gia đình
vốn là nạn nhân của CCRĐ để ghi lại một cách sinh động những thực tế bi
thảm đã diễn ra mà các đương sự khi nhớ kể lại vẫn còn rùng rợn. Được
biết
Phan Thúy Hà tuổi còn tương đối trẻ, từng là
biên tập viên lâu năm của Nhà xuất bản Phụ Nữ, đột ngột xin nghỉ việc ở
nhà chăm con và viết văn, viết báo; trước đó đã cho ra được vài tác phẩm
viết về chiến tranh và thân phận
người lính gây chú ý người đọc, như
Đừng kể tên tôi,
Qua khỏi dốc là nhà,
Tôi là
con gái của cha tôi…
Tiểu thuyết, bút
ký, hồi ký viết về CCRĐ thì đã khá nhiều, nhưng mỗi tác giả chỉ hé ra
được một vài khía cạnh. Do bức xúc trong lòng không thể nhịn được, dưới
chế độ kiểm duyệt gắt gao của ngành văn hóa và tuyên huấn, một số tác
giả đã cố gắng phản ảnh “nhích lên từ từ” được bao nhiêu hay bấy nhiêu
cuộc CCRĐ trong chừng mực có thể lọt được kiểm duyệt, tiêu biểu
như
Thời của thánh thần của Hoàng
Minh Tường, cùng với khoảng trên chục tác phẩm khác. Nên có thể nói, với
mức độ cao bóc trần sự thật của nó,
Gia đình của Phan Thúy Hà tuy
chỉ là cuốn sách nhỏ nhưng có thể coi là công trình “tập đại thành” đầu
tiên về CCRĐ đáng được những người quan tâm tìm đọc.
Trước hết, phải
hoan nghênh NXB Phụ Nữ Việt
Tại đây xin mở một
dấu ngoặc: theo sự hiểu biết của tôi, bằng trực giác và kinh nghiệm, phụ
nữ Việt
Trở lại cuốn sách
của Phan Thúy Hà, tôi đã đọc
mà mấy lần chảy nước mắt, nhiều lần đặt
sách xuống trầm ngâm nghĩ ngợi. Cho một người bạn vong niên 86 tuổi vốn
là cán bộ cách mạng lão thành mượn đọc, ngay buổi chiều hôm đó ông anh
này gọi lại: “Đọc qua vài câu chuyện, tôi không thể tưởng tượng trong
cõi nhân gian này lại có xảy ra những chuyện động trời đến như thế…”.
Tôi bảo anh cứ đọc tiếp đi thì sẽ rõ, thấm sâu thêm vấn đề.
Tại
đây tôi không muốn lặp lại những gì mà người khác đã viết nhiều rồi về
CCRĐ, như việc con tố cha, vợ tố chồng, hệ thống gia đình bị phá nát đẩy
con người vào thảm cảnh, “tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây”
… Tôi chỉ muốn nói trước hết
rằng cái địa ngục trần gian thì trên đời đâu đâu cũng có thể có, như khi
người ta phải sống trong tình trạng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh ác
liệt, hoặc bị chủ nghĩa phát xít đày đọa. Ở đây, trong điều kiện hòa
bình lập lại (sau năm 1954), cái địa ngục trần gian đó lại do một tổ
chức chính trị cầm quyền nhân danh giải phóng con người làm nên!
Khoảng những năm 50 của thế kỷ trước, dân số miền Bắc VN chỉ khoảng 16
triệu người, với 90% là nông dân nghèo, có thể một phần do chế độ thực
dân phong kiến gây ra, nhưng sự
phân hóa giàu nghèo thành phú nông-bần nông ngoài lý do chế độ chính trị
thối nát bất công, còn tùy thuộc vào tố chất khác nhau của từng cá thể
con người: nhiều trường hợp trí thông minh và ý chí giữa mỗi người không
giống nhau; có người siêng ăn nhác làm ham mê cờ bạc rượu chè, hoặc do
xui xẻo bệnh hoạn, trở thành bần nông; có người trái lại suốt ngày làm
lụng vất vả chăm lo cải thiện đời sống gia đình trở thành phú nông hoặc
địa chủ. Ngoài
ra còn có vấn đề số phận mà tạo hóa ban ra cho mỗi con người nữa (Cây
khô tưới nước cũng khô/ Người nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo…). Giả định
cứ để tự nhiên không can thiệp, người nghèo không ruộng đất làm
tá điền vẫn có thể sống được, thậm chí chỉ đi mót lúa hoặc đi ăn
xin thì tình
trạng cũng không đến nỗi tan tác như khi thực thi CCRĐ theo cách cướp
của người giàu chu cấp cho người nghèo mà kết quả tất yếu
là gây nên lòng thù hận, “oan oan tương báo”, muốn tiêu trừ đấu tranh
giai cấp mà đấu tranh giai cấp lại càng tăng thêm theo hướng ác hóa. Nếu
so sánh với chính sách người cày có ruộng của Việt Nam Công Hòa (VNCH)
thực thi vào những năm 70 của thế kỷ trước sẽ thấy khác nhau một trời
một vực: chủ đất bị truất hữu rất vui mừng vì được đền bù thỏa đáng,
thậm chí họ còn phải chạy vạy lo lót cho các nhân viên sở điền địa để
sớm được truất hữu, vì đây là hình thức nhà nước mua lại đất dư thừa của
người giàu để chia lại cho người nghèo thiếu đất. Sự so sánh này có chỗ
khập khiễng, vì VNCH có chỗ dựa ngoại viện, nhưng cũng cho thấy sự khác
nhau rõ rệt giữa cách làm thất nhân tâm với cách làm đắc nhân tâm. Giờ
lịch sử đã qua rồi, thử giả định miền Bắc sau 1954 thay vì cầu ngoại
viện vũ khí để đánh giặc “giải phóng” miền Nam, các nhà lãnh đạo chỉ
chuyên cầu ngoại viện kinh tế để kiến thiết xứ sở, thì tình hình có lẽ
đã hoàn toàn đổi khác? Tất nhiên, do ý đồ chính trị của họ, hai nước
đồng minh Liên Xô và Trung Quốc không muốn viện trợ nhiều về kinh tế mà
chỉ đồng ý tập trung viện trợ
quân sự để gây ra cuộc chiến tranh tương tàn nồi da xáo thịt giữa hai
miền Nam Bắc.
Lại nữa, các nhà
lãnh đạo chủ trương CCRĐ cũng không thấu hiểu tâm lý, nhân tình, phong
tục tập quán của người dân Việt với tất cả những ưu điểm và khuyết điểm
của nó. Để cho bần cố nông đấu tố phú nông-địa chủ thì tất yếu phải có
sự oan sai cho người bị đấu tố vì lòng ganh tị của kẻ nghèo mà dốt nát
được trao cho quyền lực và vũ khí trong tay. Họ dạy cán bộ phải sâu sát
quần chúng nhưng lại không hiểu tí gì về truyền thống nhân ái “thương
người như thể thương thân” của người dân Việt và giá trị gia đình như là
nền tảng của sự thịnh trị quốc gia. Từ trung nông đến địa chủ, thay vì
được coi là thành phần tinh hoa của nông thôn thì bị coi là đối tượng kẻ
thù cần phải tiêu diệt. Rồi còn có bệnh thành tích cố hữu nữa nên bắt
buộc phải có làm sai trong việc quy thành phần cho đạt được chỉ tiêu
trên giao (với trên 5,68% là địa chủ, theo ý của các đoàn cố vấn Trung
Quốc). Có một nhà trí thức du học ở Pháp về tham gia cách mạng được bố
trí vào đội cải cách xuống xã để “bắt rễ” (tìm được cố nông), “xâu
chuỗi” (từ một cố nông tìm thêm ra những cố nông khác), kể lại rằng ông
truy tìm mãi không ra địa chủ đích thực đủ tiêu chuẩn, chỉ có một ông
nông dân đúng là trung nông cấp trên thôi, nhưng anh đội trưởng nói rằng
nếu chúng ta không tìm ra một địa chủ thì anh ta bị kỷ luật nên yêu cầu
phải nâng tay này lên địa chủ thì mới cứu được anh ta và cả đội khỏi
mang tiếng (xem Lê Tâm, Tưởng
rằng đã quên, NXB Hội Nhà Văn, 2017, tr. 292).
Trước đây tôi cứ
tưởng chỉ có địa chủ miền Nam dễ có điều kiện hơn để sống tốt với tá
điền, nhưng đọc Gia đình của
Phan Thúy Hà, mới thấy nhiều phú nông-địa chủ miền Bắc thời trước cũng
tốt như thế. Phần lớn họ đều do thông minh, lao động cật lực, biết dè
sẻn và biết tổ chức công việc làm ăn mà trở nên khá giả với một vài mẫu
ruộng vườn; vợ con đôi khi còn phải chạy vạy buôn bán vất vả để kiếm
thêm, bổ sung cho nguồn thu nhập nông nghiệp. Khi họ khá lên rồi thì tự
nhiên cũng có lòng từ thiện (phú quý sinh lễ nghĩa), như một nhân chứng
kể chuyện về o Liên của mình là con gái nhà địa chủ: “Những người cấy
ruộng rẽ nhà tôi đến ngày gặt mong được o Liên coi. Chị coi dễ dãi. Lúc
phân chia lúa chị không xét nét, luôn dành phần lợi về cho người cấy
ruộng” (Gia đình, tr. 156).
Chỗ khác, một nhân chứng khác kể: “Ông nội mất vào mùa thu năm 1944. Cha
tôi duy trì, phát huy những việc làm phúc đức của ông. Năm đói bốn lăm
gia đình tôi nuôi cả làng… Không chỉ cưu mang dân trong làng, cha tôi
còn cứu cả một toán cướp…” (Gia
đình, tr. 186). Cho nên, dù có quy đúng thành phần địa chủ trong
CCRĐ đi nữa (không có oan sai), cũng cần phải tìm ra một đường lối xử sự
khác hẳn, nhân văn hơn, không thể để vì muốn cứu đói cho người này mà
làm cho người khác phải vong gia thất thổ, trong khi tất cả mọi người
đều là con dân cùng sống chung trong cộng đồng dân tộc, dưới lũy tre
làng.
Còn bần nông thì
sao? Không phải ai cũng xấu ác, như có người dượng nghèo nói với cháu:
“O dượng nghèo nhất làng, cháu nhìn thì biết, nhưng dượng không thèm tơ
hào quả thực. Gọi đến lấy quả thực dượng còn chửi, nhà tau không có mả
ăn cướp” (tr. 230).
Cán bộ đội CCRĐ cũng vậy, không ít người có lương tâm trong sáng: “Chú
Bành đi làm cán bộ cải cách ở Thái Bình. Chú không chịu ký vào một án tử
hình. Chú nói, thằng đó 21 tuổi, không có tội gì, chỉ vì bố mẹ nó giàu
mà tử hình. Chú không ký, bị thải hồi khỏi đội cải cách” (tr. 235-236).
Một số địa chủ bị
đấu tố nhưng việc qua rồi thì cũng rất khoan dung với những kẻ chơi xấu
mình: “Bị giam một thời gian ông Đức được thả về. Người làng lại chào cụ
như trước. Ông cho qua hết, trong lòng không giận ai. Đi lại trong làng
gặp những người trước đó dựng chuyện chửi bới ông, ông cười, coi như
không có chuyện gì xảy ra” (tr. 165)…
Vậy sự tha hóa cùng
cực, con người đối xử tàn ác với nhau trong môi trường làng xã nông thôn
miền Bắc Việt
Giờ mới thấy lời
nhận xét của ông cố vấn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại đã thoái vị sau Cách
mạng tháng Tám) đối với nhóm lãnh đạo chính trị thời đó là chính xác,
khi ông viết: “Các người cầm đầu chính phủ này chẳng phải là nhân vật
chính trị…, họ cũng chẳng biết làm cách nào để đặt một kế hoạch cho
tương lai đất nước… Than ôi, ở vùng thôn dã, đây quả là một cuộc cách
mạng đổ máu và tàn bạo, một sự nhiễu loạn, rối bời” (Con
rồng An Nam, Nguyễn Phước tộc xuất bản, 1990, tr. 201). “Các đồng
nghiệp của tôi bây giờ, lại chỉ là những nhà lý thuyết suông. Họ ngây
thơ đối với tâm lý con người, đến độ không tưởng” (tr. 209).
Nhưng CCRĐ xong rồi thì người nghèo vẫn không
hết nghèo. Sau khi CCRĐ đã bộc lộ hư hỏng thảm hại thì có việc
tổ
chức “sửa sai”, “xin lỗi” (năm
1956) nhưng một khi mọi sự đã tan nát với bao người chết oan chết thảm
con cháu ly tán khắp nơi và bao nhiêu hồn ma phiêu dạt vất vưởng khắp đó
đây thì có sửa cũng không vãn hồi gì được, nên có lẽ chỉ là một cách cứu
chữa tạm bợ nhằm làm giảm áp lực không còn chịu nổi từ cơn thịnh nộ và
oán than của phía quần chúng. Trong “sửa sai”, vài cán bộ lãnh đạo cấp
cao phải nhận kỷ luật, đương nhiên như vậy rồi, nhưng cũng chỉ dưới hình
thức chuyển họ qua vị trí công tác khác để rồi sau đó, với tư tưởng cũ
kỹ lạc hậu và cực đoan, họ vẫn còn y nguyên tiếp tục phá hại nhân dân
dưới những hình thức khác.
Lý luận kiểm tra thực tiễn, nếu thực tiễn sai
chứng tỏ lý luận cũng sai, trong trường hợp thực thi cuộc CCRĐ.
Sau
CCRĐ, trong giai đoạn 1955-1975, nông dân miền Bắc bị đưa vào hợp tác xã
hàng loạt, bắt
chước một số nước XHCN anh em, nhất là Trung Quốc,
nói là trên cơ
sở tự nguyện tự giác nhưng thực tế o ép bằng mọi cách, ai không vào thì
bị quy chụp cho là có kẻ địch xen vào phá hoại. Lề lối làm ăn tập thể
này làm nảy sinh bao nhiêu thứ quái trạng, như “nhiều sãi không ai đóng
cửa chùa”, vun quén cá nhân, tệ nạn ăn cắp của công, lối sống hai mặt,
sự tập trung quyền lợi cho các nhóm quản lý đặc quyền, “một người làm
việc bằng hai/ để cho chủ nhiệm sắm đài sắm xe”…, tiếp tục đẩy nhân dân
miền Bắc vào cảnh khốn cùng; phụ nữ phải gánh phân tưới ruộng rẫy không
có được cái quần xilip để mặc, không đủ giấy vệ sinh để dùng, mà toàn
dân còn phải cung ứng lúa gạo, nhân lực vật lực hi sinh xương máu hàng
triệu người cho chiến trường để “giải phóng” miền Nam, đánh thắng giặc
Mỹ ta sẽ hơn mười ngày nay!
Tới
đây có lẽ ta cần phải suy nghĩ lại khái niệm chính xác thế nào là yêu
nước, vì mọi cuộc tuyên truyền phát động phong trào trong dân thời đó
đều dựa trên sự kích động tinh thần yêu nước chống xâm lăng. Thiết nghĩ,
dù muốn định nghĩa thế nào thì yêu nước trước hết phải thương dân, mà
thương dân thì trước hết phải bảo vệ sự an toàn tính mạng của dân và tìm
mọi cách để nâng cao đời sống cho họ, để ai ai cũng được no đủ, cũng
được học hành… Để cho nhân dân phải chịu cảnh đời rách rưới khốn khổ như
thời CCRĐ và hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc mà không biết xót
thương, không biết hổ thẹn, thì không thể gọi yêu nước thương dân chân
chính được.
Tôi
lấy làm lạ là BS Hồ Văn Châm, với tư cách tổng trưởng Bộ Dân vận Chiêu
hồi thời chính quyền Sài Gòn, khi viết tựa cho quyển
Đường đi không đến của nhà
văn Xuân Vũ (tác giả xuất bản, 1973), ông không có một câu nào chỉ trích
cộng sản miền Bắc, mà chỉ ôn tồn khuyên: “Yêu nước thì phải thương dân,
trước hết phải lo cho dân có cơm áo… Yêu nước lại càng không phải là
cưỡng bức nhân dân thắt lưng buộc bụng, nhịn đói chịu khát để tập trung
tài nguyên nhân lực vào việc dùng vũ lực mưu toan áp đặt một nền nếp suy
tư và những phương thức hành động đã được khuôn đúc mà dân chúng không
mong muốn. Các nhà cầm quyền miền Bắc nên ra khỏi tháp ngà để ngẫm nghĩ
về điều đó” (tr. III-IV).
Không ít người cho rằng, chuyện cũ xin cho qua, chỉ nên hướng về tương
lai thôi. Loại ý kiến này theo tôi có phần đúng nhưng cũng có phần chưa
ổn. Vấn đề cốt lõi ở đây là thái độ ứng xử đối với quá khứ. Nghiên
cứu-phân tích quá khứ bằng một thái độ khoan dung khách quan, chứ không
phải để mặc cảm và thù hận, từ đó có thể có được những suy nghiệm đúng
đắn nhằm hướng tới tương lai tốt đẹp hơn, kiên quyết đoạn tuyệt với
những việc làm kiểu cũ đã từng gây nên những kỷ niệm đau buồn cho đất
nước. Cuốn Gia đình của Phan
Thúy Hà nhắc lại quá khứ đau thương của thời kỳ CCRĐ vì thế là cần thiết
và có giá trị đóng góp tích cực.
Theo một quy luật phổ biến áp dụng được chung cho cả giới tự nhiên và
hoạt động xã hội, tất cả những gì biến đổi đều không hoàn toàn bị mất đi
mà chuyển hóa và tồn tại dưới những dạng thức/ hình thái khác, có thể
kéo dài khá dai dẳng. Hiểu theo nghĩa này thì hầu như tất cả những gì tệ
hại trong thời kỳ CCRĐ, hợp tác hóa nông nghiệp, kinh tế quốc doanh bao
cấp,… đều vẫn thấp thoáng tồn tại mãi cho tới ngày hôm nay, với một độ
nhạt hơn, như chủ nghĩa lý lịch phân biệt thành phần, tư tưởng ăn bám
nhà nước, tệ nạn ăn cắp của công, nếp sống giả dối hai mặt, thói đùn đẩy
trách nhiệm cho tập thể, tập quán hô khẩu hiệu, bệnh thành tích…, tất cả
đều đang là những nhân tố tiêu cực cản ngại con đường đi lên của đất
nước. Cần phải đoạn tuyệt với tất cả những thứ di sản tệ hại này của quá
khứ bằng cách thay đổi thể chế kinh tế-chính trị một cách căn bản theo
hướng dân chủ hóa, tự do hóa mọi mặt đời sống xã hội, đặt dưới sự điều
tiết vĩ mô của một nhà nước lành mạnh chỉ huy theo pháp luật.
Chúng ta biết rằng đồng bào Việt
Chúng
ta cũng không được quên rằng, những tàn tích của quá khứ vẫn còn tồn tại
đến nay trong một số điều khoản ghi trong Hiến pháp 2013, mà Điều 51
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, Điều 53 “Đất đai… thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý” là dã man nhất, dễ bị lợi dụng
nhất, trở thành căn cứ pháp lý để các nhóm lợi ích trục lợi tham nhũng,
khai thác giá trị thặng dư từ đất, gây nên tình trạng động loạn bất mãn
trong dân trong suốt mấy chục năm nay.
Cuộc CCRĐ lần thứ hai, nếu có thể gọi như vậy, thiết yếu phải là sự từ
bỏ cái nguyên tắc sở
hữu toàn dân này
một cách triệt để hơn. Bối cảnh lịch sử
xã hội hiện nay
đã đổi khác. Trong quá trình đô thị hóa, diện tích đất canh tác của nông
dân đang được thu hẹp, vấn đề sở hữu ruộng đất ở các vùng nông thôn như
hiện nay là tương đối ổn, nhưng phải mở rộng hơn nữa quyền tự do sử dụng
đất cho người dân, để họ được hoàn toàn chi phối trên mảnh đất sở hữu
của mình, thay vì cứ quy định bắt buộc đây là đất ở, kia là đất ruộng,
đất vườn, đất đào ao nuôi cá …, đồng thời giảm tối đa các thủ tục rườm
rà về xây dựng, chuyển nhượng, chỉ tạo điều kiện cho các cán bộ ngành
quản lý nhà đất lợi dụng tham nhũng, làm khó dân.
Ở tại các khu đô thị, vấn đề
quyền sở hữu nhà đất cũng cần được giải quyết thông suốt tương tự như
thế, bằng cách bãi bỏ thủ tục “chuyển quyền sử dụng”, với điều kiện
người sử dụng nhà đất phải tuyệt đối tuân theo quy hoạch chung của cả
khu đô thị thuộc thành phố, tỉnh, quận huyện. Trước mắt, phải tức khắc
triệt bỏ toàn bộ các khu “quy hoạch treo” trên cả nước; nơi nào nhà nước
có khả năng ngân sách cần triển khai các công trình xây dựng vì lợi ích
công cộng thì phải bồi thường thích đáng cho người dân theo đúng hoặc
gần với giá trị thị trường.
Từ
tập hồi ký nhiều tác giả do Phan Thúy Hà chấp bút, tôi đã bình luận
phăng ra dài dòng đủ thứ vấn đề, như vậy có đi quá xa không, có gì quá
lố phạm phải sai lầm không, rất mong được các vị thức giả vui lòng chỉ
giáo.
24.7.2020
|