Hiện Trạng Dân Trí, Quan Trí Và
Dân Khí Của Người Việt
Trần Văn Chánh
Một ngày nọ, tôi có dịp vào một hiệu sách nhỏ (chủ yếu bán theo phương
thức online) ở quận Bình Thạnh (TP. HCM), tình cờ gặp một em sinh viên
đang học khoảng năm thứ III khoa Sử. Em tìm mua quyển
Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại
Sán (bản dịch của Ban Tu thư Đại học Huế trước 1975) đã được tái bản vài
năm gần đây. Em cho biết nhà đã có bản in cũ (trước 1975), giờ muốn mua
thêm bản mới. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao chịu tốn tiền vô ích vậy, thay
vì dùng bản cũ thậm chí còn tốt hơn (vì là ấn bản quý hiếm), thì được em
cho biết, đại khái: Cháu đã có bản cũ nhưng không dám dùng nó để trích
dẫn trong các bài viết, vì sợ bị “đánh giá” đã dùng cuốn sách liên quan
tới chế độ cũ, trong khi lý lịch gia đình cháu không được tốt (hiểu là
cha chú có dính tới ngụy quân ngụy quyền sao đó). Tôi ngạc nhiên thở dài
nói với em đó: “Em là sinh viên thuộc lớp trẻ, đại diện cho tương lai
của đất nước, mà nhát vậy sao?”. Rồi thôi, không tiếp tục câu chuyện
nữa, sợ em buồn, hoặc nói thêm nữa có lẽ cũng không hiểu hết ý, vì em đã
“định kiến” như vậy rồi. Thật tội nghiệp!
Về nhà, tôi hỏi lại một bạn trẻ khác đã từng dạy đại học khoa Sử, rằng
câu chuyện về em sinh viên kể trên là cá biệt hay có tính phổ biến, thì
người bạn cho biết: Hiện tượng đó là có thật, nhưng cũng có phần nào cá
biệt.
Tôi ngẫm nghĩ: Tuy không phổ biến, nhưng có thật, và phần nào cá biệt,
như thế cũng đủ rầu lắm rồi. Sinh viên là thành phần trí thức trẻ, mà
nhếch nhác như vậy, thì còn trông mong gì! Và dân khí (chí khí của dân)
tệ hại, là do đâu? Em sinh viên kể trên, nhờ thông qua bậc đại học, có
thể phát triển tri thức khá, nhưng có tri thức mà chí khí tầm thường
nhếch nhác quá thì phỏng có thể đóng góp được gì cho xã hội? Khi ra đời
làm việc, em có dám phát biểu chính kiến thật của mình về một vấn đề gì
đó không? Hay cũng giống như mấy ông cán bộ CS có chức có quyền?
Giới trẻ Việt
Lại nói về “quan trí”. Hai chữ này tra trong từ điển tiếng Hán và tiếng
Việt đều không có. Đây là một từ mới (có ý nghĩa hơi tếu) đặt ra gần đây
để chỉ trình độ tri thức, hay còn gọi cái tầm nhìn, của giới quan lại,
tức các cán bộ đảng viên CS giữ chức vụ từ tương đối cao đến rất cao
trong bộ máy nhà nước. Quan trí Việt
Tôi có ông bạn nhà báo, kể lại, anh ta gặp một ông đã nguyên là Thường
trực Ban Bí thư trung ương. Trong lúc hàn huyên, bạn tôi hỏi ông này có
theo dõi thông tin trên các mạng xã hội không, thì ông cho biết hằng
ngày chỉ đọc báo Nhân Dân và
xem tivi thôi. Tôi nghe vậy kêu trời, luận rằng nếu ông ta nói thật thì
có nghĩa ông quá kém, trong thời đại bùng nổ thông tin mà ông kém năng
động như vậy thì làm sao đủ kiến thức để điều khiển các cấp dưới và quản
lý điều hành xã hội (vốn từng bước thay đổi, diễn biến rất nhanh); còn
nếu như ông ta nói dối (có đọc báo mạng mà giấu) thì lại là quá hèn!
(cần gì phải nói dối?). Lúc đó, vừa xảy ra vụ Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà
Nội) chừng vài tuần, công an huy động đại quân tấn công vào cánh đồng
Sênh giết chết cụ Lê Đình Kình làm xôn xao dư luận, hỏi ông có nhận định
thế nào không thì ông giơ hai tay lên nói: “Cho tôi xin”. Có nghĩa là
ông “mũ ni che tay”, vô cảm và vô trách nhiệm, tuyệt đối tuân thủ theo
chủ nghĩa sống chết mặc bây, hay còn gọi là “mặc kệ nó” (mackeno). Ông
là đại thần trong triều, mà quan trí và quan khí của ông như vậy, thử
hỏi những kẻ cấp dưới làm việc xung quanh ông lúc ông còn đang cầm quyền
là thế nào?
Một lần khác, có dịp trò chuyện với một cô có bằng tiến sĩ, giữ chức Phó
giám đốc một nhà xuất bản (hiện đã lên Giám đốc), cô hỏi tôi đạo Cao Đài
có khác với đạo Hòa Hảo không. Một anh Tổng biên tập một nhà xuất bản
khác, khi người ta đưa tập bản thảo có tên là “Đạo uyển” tới để duyệt
xin giấy phép xuất bản, anh ta hỏi một nhân viên cấp dưới “Đạo uyển là
đạo gì?”, vì tưởng “Uyển” là tên của một tôn giáo! (như đạo Khoai, đạo
Dừa…).
Tôi không có thói quen hoặc lấy làm hứng khởi biếm nhẽ chỗ dốt của người
khác, dù người đó là ai, trái lại hết sức thông cảm với họ, vì cho rằng
hiện trạng quan trí-quan khí kém cỏi như vài thí dụ kể trên không phải
do chính bản thân họ, mà chủ yếu do thể chế chính trị độc tài toàn trị
mang tính giáo điều và chính sách ngu dân tạo nên. Nó có gốc tận từ bên
Liên Xô (cũ) và nhất là bên Tàu, mà các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam
đã có thời kỳ cho du nhập vào để
làm phương tiện trị dân theo đường lối tập thể hóa trấn áp dân chủ và
quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Như chúng ta đều
biết, trong suốt thời kỳ Mao Trạch Đông cầm quyền, lời nói của Mao luôn
được coi là thiên kinh địa nghĩa. Trong thời kỳ Đại cách mạng văn
hóa, ở Trung Quốc lưu hành rộng rãi một cuốn sách nhỏ loại bỏ túi, gọi
là Mao
Chủ tịch ngữ lục,
mà cán bộ tuyên huấn hoặc các chính trị viên Việt Nam trong thời kỳ
chiến tranh cũng có người dùng làm sách cẩm nang, coi là khuôn vàng
thước ngọc phải noi theo.
Để hiểu thế nào là chủ nghĩa giáo điều, tưởng
cũng nên nhắc lại một định nghĩa lấy từ trong bộ từ điển triết học cũ
của Liên Xô (cũ), được biên soạn đồng thời với thời kỳ Mao Trạch Đông
làm cách mạng văn hóa, ở mục GIÁO ĐIỀU, CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU: “Giáo điều
là một nguyên lý mà người ta tiếp thu một cách mù quáng, bằng sự tín
ngưỡng, không có phê phán, không chú ý đến những điều kiện ứng dụng nó.
Chủ nghĩa giáo điều là đặc điểm của tất cả những hệ thống lý luận bảo vệ
cái lỗi thời, cũ kỹ, phản động và chống lại cái mới, cái tiến bộ…” (Từ
điển triết học,
NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960, tr. 312). Nếu hiểu theo nghĩa này, thì Việt
Chí khí hèn kém của dân cộng với chí khí bại hoại của quan, hợp chung
lại thành “dân khí” Việt
Muốn thay đổi hiện trạng dân trí và dân khí để xây dựng đất nước hiệu
quả hơn, thiết nghĩ, cái công thức “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh” (Mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, chú trọng dân sinh) do cụ
Phan Châu Trinh phát biểu một thế kỷ trước đây vẫn còn thích hợp để đem
ra áp dụng.
Đại khái, cần bãi bỏ chính sách ngu dân qua việc ép buộc phải học phổ
biến chủ nghĩa Mác-Lênin trong các trường đại học và trung học chuyên
nghiệp (chỉ giữ lại bộ phận triết học Mác-Lênin như một phần của bộ môn
lịch sử triết học thế giới). Phê phán chủ nghĩa giáo điều kiểu Liên Xô
cũ và kiểu Mao Trạch Đông. Chống tệ sùng bái cá nhân và “giải thiêng”
một vài nhân vật chính trị thuộc thế hệ tiền bối.
Về đường lối xây dựng chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội, cần bãi bỏ
phương pháp lãnh đạo-chỉ đạo bằng các bản nghị quyết và các bản kế hoạch
5 năm đầy tính giáo điều, rập khuôn theo kiểu Liên Xô, Trung Quốc, trên
thực tế là chưa bao giờ được thực hành đúng, và vì những thứ này trước
nay đều làm cho sự vận hành của bộ máy hành chính trở nên xơ cứng không
đạt hiệu quả thiết thực. Thay vào đó, chỉ cần những chính sách lớn cơ
bản đúng là được, linh động thay đổi tùy theo tình hình thực tế của mỗi
lúc mỗi thời.
Bãi bỏ một số đoàn thể vô dụng và có hại cho dân trí-dân khí như Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ… Thay vào đó là những tổ chức có tính định hướng
và giáo dục, tương tự như hiệu đoàn nhà trường hoặc tổ chức Hướng đạo
trước đây.
Thực hiện một cách thực chất dân chủ hóa rộng rãi đời sống xã hội như
những điều đã được ghi trong Hiến pháp Việt Nam 2013, đặc biệt về các
quyền tự do dân chủ, như tự do bầu cử ứng cử, tự do báo chí, lập hội,
biểu tình… Cho phép thành lập báo chí và nhà xuất bản tư nhân hoạt động
trong khuôn khổ của Luật Báo chí và Luật Xuất bản (có sửa đổi, bổ sung
theo hướng tiến bộ hơn). Khuyến khích xuất bản nhiều loại sách trong tủ
sách tinh hoa nhân loại về chính trị, văn hóa… (như phần nhiều các sách
của nhà xuất bản Tri Thức trong thời kỳ ông Chu Hảo làm giám đốc).
Với sự phân tích khách quan về dân trí, quan trí và dân khí cùng vài gợi
ý đề nghị sơ lược như trên, các nhà đương cuộc có trách nhiệm hiện nay
tất yếu đang phải đứng trước một trong hai lựa chọn quyết định mang tính
lịch sử: Hoặc quý vị cứ tiếp tục ngu dân và làm thui chột dân khí bằng
tất cả những gì cũ kỹ đã làm từ trước tới nay (như trấn áp dân chủ…) để
tiếp tục giữ được chính quyền nhưng dân tộc thì bị lụn bại; hoặc quyết
tâm chuyển hướng sang phương châm “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh”, mà trong tình hình hiện nay, “chấn dân khí” là vô cùng quan
trọng, để đất nước Việt Nam trở nên hùng cường có thể sánh vai cùng các
bè bạn năm châu trên thế giới.
26.12.2020
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 26-12-20 |