SÀI GÒN NHỎ
Từ chiến tranh Ukraine lo số phận Việt Nam
Cuộc xâm lược của Vladimir Putin tại Ukraine làm cho dư luận quốc tế
nghĩ tới một hành động tương tự của Tập Cận Bình ở Đông Á.
Hiếu Chân
Trong một bài bình luận đăng trên báo Nikkei
Asia Review hôm thứ Hai 21 Tháng Ba, ông Derek Grossman, chuyên
viên phân tích quốc phòng tại tổ chức nghiên cứu RAND Corp., cựu cố vấn
tình báo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, cho rằng khả năng xảy ra xung đột
giữa Việt Nam và Trung Quốc cao hơn là giữa Trung Quốc với Đài Loan.
Điều đó có nghĩa là Việt Nam chứ không phải Đài Loan có nguy cơ trở
thành miếng mồi ngon của Trung Quốc trong tương lai, giống như Ukraine
đang là mục tiêu xâm lược của Putin.
Ông Grossman nhận định: “Là nhà nước xã hội chủ nghĩa anh em được cai
trị bởi một đảng Cộng sản chuyên chế, Hà Nội đang chịu áp lực ngày càng
tăng của Trung Quốc, nhất là chung quanh những yêu sách chủ quyền chồng
lấn nhau ở Biển Đông. Trong khi Trung Quốc chưa đe dọa xâm lăng Việt Nam
như cuộc xâm lăng của Nga ở Ukraine, nhưng hai quốc gia châu Á thỉnh
thoảng vẫn xảy ra những vụ va chạm chết người trên biển. Một sự cố
trên biển có thể lan tới đất liền, làm gián đoạn không khí hòa bình kéo
dài vài thập niên nay trên biên giới chung của hai nước là điều không
phải không hình dung được. Trái lại, một kịch bản như vậy có khả năng
xảy ra nhiều hơn là một cuộc xâm lăng Đài Loan trong thời gian trước
mắt”.
Có nhiều căn cứ thực tế ủng hộ lập luận của ông Grossman.
Sợi dây trói “Bốn không”
Đảng Cộng sản Việt Nam có đường lối quốc phòng “bốn không” (không tham
gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia;
không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam
để chống lại nước khác; và không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế). Nhiều người cho rằng, đường lối “bốn không”
là cái sợi dây trói mà Hà Nội tự buộc vào trong một thế giới nhiều biến
động khó lường.
Do Việt Nam không là thành viên của liên minh quân sự nào, không có hiệp
ước phòng thủ chung với bất kỳ cường quốc nào nên nếu Trung Quốc tấn
công Việt Nam thì Bắc Kinh không sợ bị nước nào chen vào can thiệp. Mặc
dù quan hệ Mỹ-Việt Nam phát triển mạnh trong các năm gần đây, nhưng quan
hệ Việt-Mỹ vẫn nằm ở vị trí thứ yếu so với quan hệ Việt-Nga, Việt-Trung
và Việt-Ấn. Việt Nam thậm chí cũng không có hiệp ước an ninh chung với
Nga dù mua rất nhiều vũ khí của Nga. Nếu xảy ra xung đột ở Biển Đông thì
Việt Nam chỉ có thể tự lực đương đầu với Trung Quốc mà không thể “cầu
viện” sự hỗ trợ của bất kỳ nước nào.
Philippines cũng là nước có tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc nhưng
giữa Phi và Mỹ có hiệp ước phòng thủ chung từ năm 1951, theo đó Mỹ có
nghĩa vụ hỗ trợ trong trường hợp lãnh thổ Phi bị tấn công quân sự.
Đài Loan không có hiệp ước an ninh với Mỹ như Philippines. Nhưng đạo
luật Quan Hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act-TRA) mà Quốc Hội Mỹ ban hành
năm 1979, trao quyền cho tổng thống Hoa Kỳ được quyết định sử dụng quân
đội để bảo vệ Đài Loan khi được Quốc Hội chấp thuận và hòn đảo này bị
tấn công.
Các chính phủ Mỹ từ 1979 đến nay, dù thuộc Dân Chủ hay Cộng Hòa, đều ủng
hộ Đài Loan, cung cấp cho đảo quốc này nhiều vũ khí tân tiến để tự vệ
chống Trung Quốc. Mới đây Tổng thống Joe Biden đã hai lần khẳng định Hoa
Kỳ sẵn sàng bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc tấn công quân sự. Việt Nam
không hề có được sự bảo đảm như vậy.
Thể chế và giá trị
Đài Loan – và Ukraine – là những nước nhỏ nhưng theo thể chế dân chủ tự
do, chính phủ được người dân bầu lên một cách tự do và minh bạch. Cuộc
xâm lăng Ukraine bị thế giới văn minh coi là hành động của nhà độc tài
Vladimir Putin chống lại những giá trị phổ quát về nhân quyền và thượng
tôn pháp luật, xâm phạm quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc
gia.
Vì vậy, thế giới đã gần như đồng lòng đứng về phía Ukraine, viện trợ khí
giới, quân nhu cho cuộc kháng chiến và sẵn sàng tiếp đón bảo bọc người
dân Ukraine tị nạn chiến tranh; coi đó là cuộc chiến của văn minh chống
lại sự dã man, chuyên chế. Nếu bị Trung Cộng xâm lược trong tương lai
thì có thể Đài Loan cũng nhận được sự ủng hộ tương tự. Gần đây nhất,
chính phủ các nước Nhật và Úc đã công khai tuyên bố ủng hộ Đài Loan
chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc chỉ vì thể chế chính trị của Đài
Loan phù hợp với hệ giá trị mà các nước này theo đuổi.
Khác với Đài Loan và Ukraine, Việt Nam cho đến nay vẫn đi theo mô hình
độc tài đảng trị chuyên chế giống hệt Trung Quốc và Nga, bị coi là “đứng
về phía sai lầm của lịch sử”. Chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam –
như đã xảy ra năm 1979 – sẽ bị coi là xung đột giữa những người “cộng
sản anh em”, giữa các thế lực chuyên chế mà thế giới bên ngoài không
muốn can thiệp. Việt Nam do vậy sẽ không nhận được sự hỗ trợ của thế
giới văn minh trong cuộc đối đầu với Trung Quốc chừng nào Hà Nội vẫn còn
kiên trì đi theo mô hình toàn trị độc đảng, quay lưng với tiến bộ của
nhân loại.
Nếu không tham gia liên minh quân sự nào nhưng đi theo con đường dân chủ
và tự cho, tôn trọng nhân quyền và các giá trị phổ quát của nhân loại,
Việt Nam vẫn có cơ may được thế giới văn minh ủng hộ như trường hợp
Ukraine. Nhưng tiếc thay, đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường khác.
Thực lực quân sự
Chiến tranh trước hết là sự đụng độ của các thế lực quân sự. Xét về quân
sự Việt Nam hiện nay không phải là đối thủ của Trung Quốc như vài chục
năm trước. Chi tiêu quốc phòng hằng năm của Trung Quốc hiện chỉ đứng sau
Hoa Kỳ, ở mức $230 tỷ, gấp 32 lần so với ngân sách $7 tỷ hàng năm của
Việt Nam. Sau thất bại của Chiến tranh Biên giới 1979, Bắc Kinh đã dốc
sức hiện đại hóa quân đội, tham vọng xây dựng quân đội đẳng cấp thế giới
đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ.
Từ một đội quân nông dân sử dụng chiến thuật “biển người” để áp đảo đối
phương, Trung Quốc đã có một quân đội hiện đại sở hữu nhiều vũ khí tân
tiến, nhiều hỏa tiễn hành trình, hỏa tiễn đạn đạo tầm trung và tầm xa,
máy bay ném bom cỡ lớn, chiến đấu cơ tàng hình, tàu ngầm, hàng không mẫu
hạm và chiến hạm các kiểu – tất cả đều khá tân tiến và có số lượng áp
đảo, thậm chí hải quân Trung Quốc có số tàu chiến nhiều hơn cả Hoa Kỳ.
Đối đầu với một đội quân như vậy, Việt Nam có gì? Hầu hết vũ khí của
Việt Nam đều nhập cảng từ Nga, Theo một thông tin của đài RFA về quân
đội Việt Nam, về không quân đáng kể nhất có khoảng 34 phi cơ Su-22, 43
phi cơ Su-27 và Su-35, 12 phi cơ Su-30; trong đó các mẫu Su-22 và Su-27
đã ngừng sản xuất, nghĩa là đã quá cũ kỹ. Về hải quân, Việt Nam mua sáu
tàu ngầm lớp Kilo của Nga, bàn giao năm 2017, hiện đóng tại Cam Ranh.
Về bộ binh, chủ lực của Việt Nam là khoảng 80 xe tăng T-90 mới mua về,
bổ sung cho đội tăng cũng của Nga còn lại từ thời nội chiến trước 1975.
Tất cả các loại máy bay tàu ngầm xe tăng này đều phụ thuộc hoàn toàn vào
nguồn cung cấp thiết bị phụ tùng và vũ khí chủ lực của Nga – mà trong
hoàn cảnh nước Nga bị thế giới cấm vận ngặt nghèo do vụ xâm lược
Ukraine, nguồn cung phụ tùng và vũ khí của Nga cho Việt Nam chắc chắn bị
đứt quãng.
Chưa kể rằng, về vũ khí, Moscow bán cho Hà Nội loại gì thì cũng bán cho
Bắc Kinh loại đó, phiên bản tối tân hơn và số lượng lớn hơn nhiều. Thực
tế chiến trường Ukraine còn cho thấy các loại vũ khí của Nga, dù được
quảng cáo rùm beng, chỉ là những miếng mồi ngon cho các loại hỏa tiễn
phòng không, hỏa tiễn chống tăng mà phương Tây viện trợ cho Kyiv.
Chính phủ Mỹ dưới thời Tổng thống Barack Obama đã bãi bỏ lệnh cấm vận vũ
khí đối với Việt Nam; cho phép Việt Nam được mua sắm vũ khí sát thương
của Mỹ. Nhưng đến nay, hầu như Hà Nội không mua các loại vũ khí Mỹ với
lý do giá đắt, không tương thích với các hệ thống vũ khí Nga mà Việt Nam
hiện có. Nhưng cũng có lý do ngầm là mua vũ khí của Mỹ các quan chức Bộ
Quốc Phòng Việt Nam không có được khoản “lại quả” béo bở để bỏ túi như
mua vũ khí của Nga.
Chiếc thòng lọng của Trung Quốc
Tuy chưa đe dọa xâm lăng Việt Nam nhưng trong những năm gần đây Trung
Quốc đã lập ra một chuỗi căn cứ quân sự bao vây Việt Nam từ nhiều hướng.
Sau khi chiếm bảy đảo đá ở Trường Sa năm 1988, Trung Quốc đã thực hiện
bồi đắp chúng thành những hòn đảo nhân tạo và xây dựng trên đó những căn
cứ quân sự hiện đại, cùng với căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần
đảo Hoàng Sa khống chế hoàn toàn bờ biển Việt Nam.
Mới đây nhất, hôm 21 Tháng Ba 2022, Đô Đốc Hải Quân Mỹ John C. Aquilino,
tư lệnh bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (INDOPACOM), đã có chuyến
thị sát vùng Biển Đông trên phi cơ tuần thám và cho biết Trung Quốc đã
hoàn toàn “quân sự hóa” ít nhất ba trong số các hòn đảo họ xây dựng bất
hợp pháp, bố trí các hệ thống hỏa tiễn chống chiến hạm và chống phi cơ,
súng laser và hệ thống gây nhiễu điện tử, cùng là các chiến đấu cơ, đe
dọa tất cả mọi quốc gia hiện diện quanh đó.
Ở hướng Tây, Trung Quốc đã thu phục được Lào và Cambodia – quân đội
Trung Quốc núp dưới vỏ bọc công ty nông nghiệp, đã thuê mướn nhiều ngàn
héc ta đất rừng giáp biên giới Việt-Lào, Việt-Cambodia, xây dựng những
công trình mà không ai biết rõ để phòng khi hữu sự sau này. Trung Quốc
còn đầu tư nâng cấp, cải tạo bến cảng và căn cứ hải quân Ream của
Cambodia trên vịnh Thái Lan, có thể phục vụ cho hải quân Trung Quốc sau
này, bất chấp sự phản đối quyết liệt của Hoa Kỳ.
Ở hướng Bắc, năm ngoái Trung Quốc công khai thừa nhận đã xây dựng hai
căn cứ quân sự quan trọng sát biên giới Việt-Trung, gồm một căn cứ hỏa
tiễn và một căn cứ cho phi cơ trực thăng. Bề ngoài, Trung Quốc nói đây
là các cơ sở phòng thủ nhưng giới phân tích quân sự đều cho rằng sự ra
đời của chúng là nhằm gây sức ép lên chính quyền Việt Nam.
Và một quân đội rệu rã vì tham nhũng
Đối đầu với một kẻ thù “truyền kiếp” có âm mưu thâm độc và sự chuẩn bị
dài hơi như vậy, có thể trông mong quân đội Việt Nam có năng lực bảo vệ
tổ quốc, bảo vệ giang sơn mà tổ tiên để lại hay không?
Việt Nam là một trong số vài quốc gia cho phép quân đội “làm kinh tế”,
và hiện quân đội Việt Nam sở hữu rất nhiều tập đoàn, tổng công ty kinh
doanh tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ, từ viễn thông, xây dựng công
trình, kinh doanh khách sạn, khu nghỉ mát, nhà hàng tiệc cưới đến vận
tải hàng hóa v.v… “Nước sông, công lính” – lợi dụng sức lao động miễn
phí của binh sĩ và những lợi thế riêng của quân đội, các tập đoàn này
cạnh tranh không sòng phẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác, tạo ra một thị trường méo mó và bất công.
Nhiều doanh trại quân đội có diện tích đất rộng lớn ở nội thành các
thành phố lớn như Sài Gòn nay bỗng biến thành các khu thương mại, khu
dân cư cao cấp, thậm chí thành khu giải trí, sân golf… chỉ nhằm kinh
doanh thu tiền mà không liên can gì tới hoạt động của quân đội. Chỉ cần
dạo một vòng quanh các khu đô thị lớn đã có thể thấy “quân đội làm kinh
tế” có quy mô khủng khiếp như thế nào.
Quân đội làm kinh tế là môi trường đẻ ra và nuôi dưỡng tệ nạn tham
nhũng, từ tham nhũng đất đai, tiền bạc tới mua quan bán chức. Và tham
nhũng xói mòn uy tín của quân đội, triệt tiêu sức chiến đấu của nó khi
các sĩ quan không quan tâm tới việc tập luyện nâng cao sức chiến đấu của
quân đội mà chỉ tập trung kiếm thật nhiều tiền cho bản thân, cho đơn vị
và gia đình. Hàng chục sĩ quan cấp tướng thuộc nhiều binh chủng, nhiều
quân khu gần đây đã bị đưa ra tòa án binh, bị tù tội vì ăn chia không
đồng đều trong các phi vụ “quân đội làm kinh tế”. Hiện người sử dụng
mạng xã hội ở Việt Nam liên tục chế giễu cái thực tế phũ phàng rằng, sau
một tháng chiến tranh Ukraine, quân Nga có sáu tướng lĩnh bỏ mạng trên
chiến trường, còn Việt Nam chưa chiến tranh mà đã có hàng chục tướng
lĩnh gục ngã, vào tù đếm kiến vì tham nhũng.
Với phương châm “Trung với Đảng”, quân đội Việt Nam thực chất chỉ là
cánh tay bạo lực của đảng Cộng sản, chống lại và đè bẹp mọi biểu hiện
phản kháng của người dân. Quân đội đó không được người dân ủng hộ và
cũng sẽ không nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng thế giới như quân kháng
chiến Ukraine hiện nay.
Một đội quân như vậy chưa ra trận đã nắm chắc phần thất bại, nhất là khi
đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh và vô cùng xảo quyệt như Trung Quốc.
Lòng dân ly tán
Thế mạnh của Việt Nam là chiến tranh du kích khi đất nước bị xâm chiếm,
nói theo ngôn ngữ của nhà cầm quyền cộng sản là “chiến tranh nhân dân”,
trong đó mỗi người dân là một chiến sĩ chống quân xâm lược. Nhưng sau
nhiều thập niên bị đàn áp tàn bạo dưới chính thể cộng sản, người Việt
Nam bây giờ hầu như không muốn cầm súng, dù cầm súng để bảo vệ đất nước.
Khi nhà cầm quyền cộng sản kết án cả những hành động thể hiện lòng yêu
nước như biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông, tập trung
dâng hương tưởng niệm những tử sĩ chống Trung Quốc đã bỏ mình ở Hoàng
Sa, Trường Sa, biên giới phía Bắc thì người dân không còn tin vào những
lời tuyên truyền đường mật của nhà cầm quyền về lòng ái quốc, về sự hy
sinh nữa.
Người ta không thấy ý nghĩa nào trong việc đổ máu để bảo vệ một chế độ
cộng sản cực quyền, một tập đoàn những tên tham nhũng cánh hẩu, đi ngược
những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền – nhất là khi chế độ đó tỏ ra
ngày càng khom lưng uốn gối trước kẻ thù chỉ để duy trì quyền cai trị
trên đầu trên cổ người dân. Không nên kỳ vọng người dân thường Việt Nam
sẽ cầm súng ra trận, đổ máu để ngăn chặn quân xâm lược như người dân
Ukraine đang làm và được cả thế giới cảm phục hiện nay. Lòng dân ly tán,
ngán ngẩm là điểm yếu nhất trong công cuộc phòng thủ Việt Nam trước âm
mưu bành trướng của Trung Quốc hiện nay.
Triển vọng u ám của Việt Nam
Một số quan sát viên cho rằng, Trung Quốc không cần phải dùng sức mạnh
quân sự để xâm lược Việt Nam khi Bắc Kinh đã thâu tóm bộ máy lãnh đạo
chóp bu của đảng Cộng sản và cài cắm tay chân của họ vào bộ máy đảng và
chính quyền Việt Nam các cấp, khống chế và buộc chúng thực thi các ý
định của “thiên triều”. Nhưng một khi có dấu hiệu Hà Nội đi chệch ra
khỏi con đường đã định, gần gũi với Hoa Kỳ và phương Tây, có thể Trung
Quốc sẽ không để yên.
Trung Quốc ngày càng lấn lướt trên Biển Đông, trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam và không loại trừ khả năng những va chạm trên biển có
thể dẫn tới những xung đột lớn hơn, thậm chí chiến tranh, cả trên quần
đảo Trường Sa lẫn trên đường biên giới dài gần 1,300 cây số giữa hai
nước. Nếu chiến tranh Trung-Việt nổ ra một lần nữa, Việt Nam sẽ không có
sức kháng cự, và cũng không được quốc tế ủng hộ, tiếp sức như Đài Loan
hay Ukraine cho dù thế giới có phản đối hành động của Bắc Kinh đi nữa.
Tất cả những yếu tố trên chắc chắn đang được Tập Cận Bình và đội ngũ
tham mưu của ông ta tính toán, cân nhắc, tìm cơ hội để ra tay. Nếu cuộc
chiến Ukraine kết thúc mà nước Nga của Putin giành được một số sự nhượng
bộ nào đó từ Ukraine thì Tập sẽ có động lực để thực hiện một “chiến dịch
quân sự đặc biệt” kiểu Putin ở khu vực Đông Á. Nhìn từ hướng nào đều
thấy số phận nước Việt Nam đều rất bi thảm dưới sự cai trị của tập đoàn
cộng sản Hà Nội và trước tham vọng bá quyền của Tập Cận Bình |