Hôm nay 14/06/2014 tại khu
vực giàn khoan Hải Dương do Trung Quốc đặt trái
phép tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
trên Biển Đông, các tàu Trung Quốc đã dàn hàng
ngang để ngăn cản các tàu cảnh sát biển và kiểm
ngư của Việt Nam làm nhiệm vụ cũng như các tàu
cá Việt Nam đang đánh bắt, sẵn sàng đâm va.
Từ đầu tháng Năm đến nay,
tình hình vẫn luôn căng thẳng tại khu vực này,
khiến mọi người đều lo sợ khả năng xảy ra chiến
tranh trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tướng không quân Jean-Vincent Brisset, giám đốc
nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến
lược (IRIS) chuyên về an ninh châu Á và Trung
Quốc, đã vui lòng trả lời RFI Việt ngữ về vấn đề
này.
RFI
: Kính chào ông
Jean-Vincent Brisset. Thưa ông, tình hình tại
Biển Đông xung quanh giàn khoan do Trung Quốc
đơn phương kéo đến đặt tại vùng biển gần Hoàng
Sa vẫn đang căng thẳng. Không ngày nào không có
những vụ tàu Trung Quốc gây hấn, tấn công vào
các tàu Việt Nam bằng nhiều hình thức. Liệu sẽ
xảy ra chiến tranh tại vùng biển này, hay đây
chỉ là chiến tranh cân não ?
Tướng
Jean-Vincent Brisset : Hiện giờ
chưa có nguy cơ xảy ra chiến tranh do một phía
nào đó chủ động gây chiến. Tuy nhiên chiến tranh
cũng có thể diễn ra, do Trung Quốc tỏ thái độ vô
cùng bạo lực, vô cùng đế quốc, khiến nguy cơ
xung đột vẫn hiển hiện. Nếu xảy ra chết người ở
phía Việt Nam và các nước khác chẳng hạn, thì
đương nhiên sẽ có các vụ trả đũa, gây ra các vụ
đối đầu càng lúc càng quan trọng hơn.
RFI
: Thưa ông, việc kiện ra
tòa có phải là giải pháp cho các nước liên quan
như Việt Nam và Philippines, trong khi Bắc Kinh
luôn từ chối ra trước các định chế tư pháp quốc
tế ?
Rõ ràng là Việt Nam,
Philippines có các lý do tuyệt hảo khi đi tìm
một giải pháp pháp lý, vì khá dễ dàng để chứng
tỏ rằng đây là quyền của họ. Giải pháp đi kiện
là một giải pháp tốt, do ra trước tòa án quốc tế
nào, các nước này cũng có cơ hội thuyết phục
rằng họ có lý. Nhưng vấn đề là Trung Quốc không
tôn trọng luật lệ quốc tế.
RFI
: Ông có nghĩ Biển Đông là
vùng biển mang tính quốc tế ?
Từ rất lâu Biển Đông là
vùng biển quốc tế. Có một số đảo nhỏ được nhiều
nước chiếm đóng, nhưng tương đối ổn, không có
những yêu sách chủ quyền thô bạo. Có điều Trung
Quốc lại quyết định toàn bộ Biển Đông là của
mình, bất chấp mọi luật pháp quốc tế.
RFI
: Với tính cách quốc tế của
Biển Đông, ông có nghĩ rằng châu Âu nói chung và
nước Pháp nói riêng cũng có liên quan, tuy không
đứng về phía nào trong tranh chấp ?
Pháp và các quốc gia châu
Âu khác đều có liên quan với tư cách là những
nước đã ký vào Công ước quốc tế về Luật Biển,
tuy cho đến nay Công ước này không được tôn
trọng. Vấn đề là cũng có rủi ro cho các nuớc
này, vì một phần lớn trao đổi thương mại hàng
hải đi qua khu vực này, đến 40%. Mặt khác châu
Âu không có nhiều tiếng nói trong vùng này, Pháp
lại càng ít hơn.
Tôi nghĩ rằng đối với
những nước không có mấy trọng lượng để gây áp
lực lên Trung Quốc, thì để yên cho Trung Quốc
hành động có lợi cho mình hơn là giúp đỡ những
nước nhỏ, thế nên thường là họ không có phản
ứng.
RFI
: Bắc Kinh luôn đề nghị
thương lượng song phương thay vì đa phương …
Bắc Kinh có thể hy vọng
mạnh hơn đối thủ trong các giải pháp song
phương. Rõ ràng là Bắc Kinh ít khi tiến hành các
giải pháp đa phương, dù là với châu Âu hay với
các đối tác khác, mỗi lần có đề nghị thương
lượng. Có rất ít trường hợp thương thảo đa
phương với Trung Quốc vì không có lợi cho họ
bằng song phương. Thế nên Bắc Kinh luôn xoay sở
để phá hoại tất cả các toan tính của ASEAN cho
giải pháp đa phương về vấn đề an ninh.
RFI
: Nhưng cho đến giờ mọi nỗ
lực để đưa vấn đề ra trước các tòa án quốc tế
đều thất bại, như ông
biết
Tôi cho rằng đối với Việt
Nam, Philippines, Malaysia - và không chỉ có
thế, bây giờ Indonesia mới phát hiện là họ cũng
liên quan, các quốc gia này có quan điểm tôn
trọng pháp chế. Họ muốn có được phán quyết của
các định chế tư pháp quốc tế, từ các chuyên gia,
các tòa án độc lập.
Nhưng vấn đề hiện nay là
ở chỗ, mà Trung Quốc hiểu rất rõ, trước hết, kẻ
mạnh là người áp đặt luật chơi, và tiếp đến là
truyền thông. Các nước kể trên chưa bao giờ là
người mạnh nhất, và nhất là họ không liên kết
lại để có một giải pháp chung, cũng như không
vận dụng báo chí quốc tế. Vì vậy chuyện của họ
không được ai quan tâm đến.
RFI
: Như vậy theo
ông, các nước này cần nỗ lực tuyên truyền nhiều
hơn ?
Tất nhiên rồi !
RFI
: Ông nghĩ gì
về phản ứng của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và
Việt Nam tại Diễn đàn An ninh Khu vực Shangri-la
vừa rồi ?
Người ta thấy rằng quan
hệ giữa Nhật Bản và Đài Loan có vấn đề đôi chút
liên quan đến quần đảo Senkaku, và giữa
Philippines với Đài Loan, đã được giải quyết
tương đối ổn với các thỏa thuận hòa bình, chứng
tỏ rằng có thể thương lượng được với nhau. Đài
Loan là một ví dụ ngạc nhiên và thú vị.
Thú vị hơn là giữa Nhật
và Philippines không có quan hệ ngoại giao với
Đài Loan nhưng đã thành công trong việc đạt được
thỏa ước nhằm tránh xung đột. Điều này cũng
chứng tỏ là Trung Quốc khi từ chối các thỏa
thuận này là muốn xung đột vì muốn chiếm được
Biển Đông, làm thành biển riêng của người Trung
Quốc.
Tôi có thể hiểu được
rằng, người Nhật gặp khó khăn với Trung Quốc về
hồ sơ Senkaku, cho rằng chính sách của Bắc Kinh
rất nguy hiểm cho thế giới. Người Mỹ cũng quan
tâm đến vấn đề này vì có lợi ích trực tiếp trong
khu vực. Hoa Kỳ được tất cả các nước kêu gọi
giúp đỡ vì trước sức mạnh quân sự của Trung
Quốc, các nước này không có đủ phương tiện kỹ
thuật để đối phó. Giải pháp của họ là kêu gọi sự
trợ giúp của Mỹ - một điều mới cách đây vài năm
khó thể nghĩ đến.
Việt Nam cố gắng hòa hoãn
vì biết rằng yếu hơn về quân sự cũng như kỹ
thuật, không có trọng lượng bao nhiêu đối với
truyền thông.
RFI
: Ông có nghĩ rằng có sự
hợp tác quân sự giữa Nga và Trung Quốc hay không
?
Tôi nghĩ rằng giữa Trung
Quốc và Nga có nhiều lý do để xung đột với nhau
hơn là hợp tác quân sự. Đã có cuộc tập trận
chung hết sức giới hạn cả về mặt kỹ thuật lẫn
thực tiễn. Có vài sự trao đổi, chẳng hạn như đã
có loan báo việc Nga xuất khẩu các thiết bị quân
sự phòng không, máy bay tiêm kích…cho Trung
Quốc.
Chính các nhà xuất khẩu
vừa cho biết rằng việc bán hàng không phải ngay
lúc này đã thỏa thuận xong, ngược lại đang bị
hoãn. Bởi vì người Nga biết rõ rằng về mặt quân
sự, việc « có qua có lại » không hề hiện hữu :
Bắc Kinh chỉ muốn nhận được chứ nhất định không
muốn cho đi.
RFI
: Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã đả kích thẳng thừng
các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng
phải chăng đây chỉ là nói suông không dẫn đến
hành động, mà sự kiện ở bãi cạn Scarborough của
Philippines là một ví dụ ?
Người Mỹ sẽ ngày một hiện
diện cụ thể hơn tại Biển Đông. Để tấn công một
tàu của Philippines, Malaysia hay Việt Nam như
Trung Quốc vẫn thường xuyên làm, họ có nguy cơ
gặp phải một chiếc tàu Mỹ đi ngang qua. Bắc Kinh
sẽ không muốn nhận lấy rủi ro khi tấn công, đánh
chìm một tàu của Mỹ, như họ vẫn tự cho phép.
Đánh đắm một chiếc tàu Việt Nam thì dễ dàng
thôi, không ai trên thế giới chú ý cả. Ngược
lại, đối với tàu Mỹ sẽ gây ra các phản ứng rất
nặng nề.
RFI
: Trở lại với giàn khoan
Trung Quốc, ông có nghĩ rằng đây là một phần của
chiến lược tổng thể của Bắc Kinh – và gần đây
người ta còn nói đến một giàn khoan thứ hai nữa.
Điều gì sẽ xảy ra nếu họ tiếp tục chiến lược này
?
Người Trung Quốc sử dụng
một chiến lược có thể gọi là trò chơi của trẻ
con với cha mẹ. Khi người ta còn bé, người ta
thử không chịu nghe lời một chút, và nếu cha mẹ
không trừng phạt thì đứa bé sẽ bướng bỉnh hơn.
RFI
: Ông có lời khuyên nào đối
với Việt Nam không ?
Nếu Việt Nam không thành
công trong việc làm cho các nước khác trên thế
giới chú ý đến vấn đề của mình, thì Trung Quốc
sẽ thắng, cũng như họ đã thắng khi chiếm được
Hoàng Sa cách đây bốn mươi năm.
Tất nhiên là Việt Nam
phải khởi kiện rồi, nhưng nhất là phải nỗ lực về
mặt truyền thông. Nếu Việt Nam muốn thoát khỏi
tình trạng hiện nay, thì cần phải làm cho thế
giới chú ý đến những gì đang diễn ra tại Biển
Đông.
RFI
: Chúng tôi
xin chân thành cảm ơn tướng Jean-Vincent
Brisset, giám đốc nghiên cứu của Viện Quan hệ
Quốc tế và Chiến lược (IRIS), đã vui lòng trả
lời RFI Việt ngữ