LUẬT KHOA
Công nghiệp ô tô,
chủ nghĩa dân tộc và “Vinfast-ism”: Mối lương duyên dài lâu nhưng vô
định
Ngành công nghiệp ô tô có thể định hình danh tính dân tộc. Nhưng
ra sao thì chưa ai biết.
Nguyễn
Quốc Tấn Trung
Khi Vinfast tung ra
mẫu xe điện mới, người người nhà nhà hứng khởi tự hào.
Họ tung hô thành
tựu lớn của một “công ty quốc gia” sinh sau đẻ muộn có thể thần tốc tiến
bước đến “tự sản xuất” xe ô tô điện.
Họ vui mừng so sánh
ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam với các quốc gia trong Đông Nam Á.
Họ chia sẻ và dành
những lời nồng nàn nhưng cũng vô cùng thân thiết cho một công ty sản
xuất ô tô, về bản chất là… đa quốc tịch, như thể công ty ấy là một phần
máu thịt của mình.
Những người trong
ngành công nghiệp ô tô, những người hiểu sự vận hành của chuỗi cung ứng
toàn cầu và tính kinh tế theo quy mô (economies of scale), hiểu vì sao
nhiều quốc gia không có hứng thú hướng tới một ngành công nghiệp ô tô
riêng… có thể sẽ nhận thấy các cảm xúc nói trên khá lạ lùng.
Tuy nhiên, người
viết không trình bày những điểm này để khinh thường hay phê phán thứ
tình cảm dân tộc nói trên. Ngược lại, người viết muốn tìm hiểu về “chủ
nghĩa Vinfast” dưới góc độ là đứa con tinh thần của ngành sản xuất của
toàn dân tộc. Bài viết này lý giải vì sao “Vinfast-ism” sẽ còn là động
lực chính của quá trình tăng cường hóa dân tộc chủ nghĩa tại Việt Nam,
bất kể những thay đổi chính trị trong tương lai, và dù đó là một quá
trình khá vô định. Tính
điển hình dân tộc của ngành công nghiệp ô tô
Đại đa số các học
giả phương Tây (gồm các cây bút lừng danh như Anderson, Gellner, Smith…)
đều tin rằng chủ nghĩa dân tộc (nationalism) là một quá trình cực đoan
hóa các yếu tố danh tính, từ đó biến chúng thành động lực chính trị của
sự tách biệt. Quá trình này do các chính khách chóp bu và giới tinh hoa
chỉ đạo thực hiện.
Tuy nhiên, người
viết tin rằng tư duy dân tộc, ham muốn thể hiện lòng tự tôn dân tộc và
môi trường kinh tế – văn hóa – xã hội hiện đại từ sau khi thời đại các
đế chế chấm dứt, đã được bắt đầu và nuôi dưỡng từ chính bên trong bộ
phận dân cư, củng cố bằng văn hóa vật chất (material culture), và chờ
đợi ngày bùng nổ (bằng một trận đá bóng, hay một vụ xung đột vũ trang…
có trời mà biết).
Và trong thế giới
của văn hóa vật chất, xe hơi/ xe ô tô/ xe bốn bánh là điển hình
của tất cả mọi kiểu mẫu cho tư duy dân tộc. Vì sao lại như vậy?
Theo “The
City and the Car” – một trong những bài báo đầu tiên bàn về mối liên
hệ giữa xe ô tô và văn hóa, danh tính đương đại – ô tô là sản phẩm công
nghiệp tinh túy (quintessential manufactured) của thế kỷ 20. Chúng là
tạo tác đại diện toàn bộ nền công nghiệp một quốc gia, thứ phức tạp nhất
một ngành công nghiệp dân dụng và đại chúng có thể sản xuất.
Nói theo tác giả
nghiên cứu, xe ô tô từng là đỉnh chóp cuối cùng của chủ nghĩa tư bản,
nơi những công ty biểu tượng của thời đại sản xuất ra những sản phẩm của
thời đại.
Không chỉ vậy, xe ô
tô, chỉ sau vài thập niên phát triển và hoàn thiện, nhanh chóng trở
thành thứ đáng giá thứ hai và luôn được gắn kết nhất với danh tính của
một con người. Nó chỉ đứng sau bất động sản, vốn đã có hàng ngàn năm
đồng hành cùng nhân loại.
Kể từ đó, chúng
đồng thời cũng trở thành điểm nhấn của danh tính cá nhân. Dù là về gia
đình, sự thành công, ham muốn tính dục, chủ nghĩa dịch chuyển, sự nam
tính hay sự nữ tính… xe ô tô trở thành một kênh để truyền thông tin và
kết nối các thành viên trong xã hội.
Sự thành công và
sức mạnh của một ngành công nghiệp ô tô cũng sẽ thể hiện phức hợp kỹ
thuật – xã hội hiện vận hành ra sao. Chúng ta tìm thấy chúng thông qua
mối liên hệ giữa ngành ô tô với hàng loạt các ngành công nghiệp và văn
hóa khác, từ phụ tùng, phân phối xăng dầu, xây dựng và bảo trì hệ thống
hạ tầng, cho đến sự cởi mở mô hình giao thông vận tải và chất lượng của
đường sá, khách sạn, xưởng sửa chữa, phân bổ dân cư và cấu trúc đô thị…
Vì lý do này,
Kristin Ross, trong nghiên cứu đặc biệt công phu và thú vị về văn hóa
Pháp có tên “Fast
Cars, Clean Bodies” từ tận năm 1995 , đã ghi nhận “ngành công nghiệp
ô tô, hơn bất kỳ ngành nào khác, là chỉ dấu cho năng lực sản xuất của
một quốc gia”. Sự tồn tại hay không tồn tại của ngành công nghiệp ô tô
trong một quốc gia sẽ cho chúng ta biết mức độ phát triển và sức mạnh
thực tế của nền kinh tế quốc dân. Đó là những gì tác giả đúc kết liên
quan đến ngành công nghiệp đầy khói này.
Hiển nhiên, khi thế
giới bước qua thập niên thứ ba của thiên niên kỷ mới, sự xuất hiện của
các tập đoàn công nghệ dần khiến chúng ta tự hỏi liệu ô tô có còn giữ
vai trò to lớn như xưa không?
Theo người viết,
văn hóa và danh tính xã hội gắn liền với ô tô vẫn còn đó.
Trước tiên, dù điện
toán di động của hiện tại hay trí tuệ nhân tạo trong tương lai đều là
những nền công nghiệp đột phá và có tính cách mạng, công nghiệp ô tô
tiếp tục là chiếc phễu có thể hấp thu và tiếp nhận, biến điện toán di
động lẫn trí tuệ nhân tạo trở thành các ngành công nghiệp bổ trợ cho ô
tô.
Công nghệ di động
điển hình từ định vị GPS, máy tính, thông tin liên lạc… đều đã được tích
hợp vào văn hóa di chuyển bằng ô tô.
Trí tuệ nhân tạo áp
dụng trong công nghiệp ô tô, như công nghệ giữ làn, giữ khoảng cách
(adaptive cruise control), nhận diện và bảo vệ người đi đường
(pedestrians warning and protection), đèn pha tự động (adaptive
headlight) và xa hơn chắc chắn là xe tự lái… là những minh chứng không
thể rõ ràng hơn cho thấy ô tô tiếp tục là tạo tác máy móc phức tạp nhất,
tổng hợp nhất và hoàn thiện nhất mà một nền kỹ thuật dân sự có thể sản
xuất.
Với vai trò điển
hình và dẫn đầu của ngành công nghiệp ô tô, văn hóa – tư duy quốc gia
gắn liền với nó không phải là điều quá ngạc nhiên.
Ví dụ điển hình là Fordism (Chủ
nghĩa Ford), được Hoa Kỳ và Ford, hai tên tuổi lừng danh trong ngành
công nghiệp ô tô tạo ra trong thế kỷ 20.
Là một tư duy và
triết lý sản xuất, do Henry Ford khởi xướng, liên quan đến quy trình sản
xuất lớn và sản xuất hàng loạt, Fordism gắn kết chặt với tư duy dân chủ
hóa và chủ nghĩa quân bình (egalitarianism) từng có tầm ảnh rất lớn lên
sự hình thành của xã hội Hoa Kỳ.
Trong tư duy dân
tộc đó, phương tiện giao thông không thể là độc quyền của một giới, một
giai cấp. Nó phải được bình dân hóa và phổ biến hóa. Sở hữu ô tô phải
trở thành một đặc tính chung của “người Mỹ”.
Ngược lại, tại
Vương quốc Anh với Rolls-Royce, Bentley hay Lanchester… ô tô luôn là
biểu tượng của sự tinh tế và thịnh vượng. Ô tô không thể được sản xuất
một cách đại trà hay rẻ rúng. Dù đây là một tư duy sặc mùi chủ nghĩa
tinh hoa, người dân phổ thông Anh hoàn toàn đồng
tình với điều này.
Xe của người Anh là
hiện thân hoàn hảo nhất của chất lượng. Hay nói theo ngôn ngữ của Sean
O’Connell trong quyển “The
Car and British Society”, thứ phân biệt xe ô tô của Anh với mọi nơi
khác trên thế giới là “chất nam tính anh hùng kiểu Anh” (heroic British
masculinity), hay ngắn gọn là “chất Anh” (Britishness). Đối với người
dân nghèo của vương quốc, Rolls-Royce là lời khẳng định cho tay nghề
thượng đẳng của người Anh (superior British craftsmanship).
Nếu nhìn kỹ hơn,
chúng ta cũng có thể thấy công nghiệp ô tô là nơi thể hiện rõ nhất bản
chất địa chính trị và thói quen văn hóa của từng khu vực địa lý, từng
quốc gia.
Công chúng Hoa Kỳ,
với khung đời sống là một lãnh thổ rộng lớn, một hệ thống chính trị được
phi tập trung hóa “hết cỡ” nếu so với các chính thể khác trên thế giới,
nhanh chóng nhìn thấy trong ô tô một biểu tượng của chủ nghĩa cá nhân,
của tự do dịch chuyển, của cơ hội khai phá – phiêu lưu và quyền sở hữu
tuyệt đối.
Ngược lại, công
chúng Anh, sống trong lãnh thổ chật hẹp hơn, với hệ thống phương tiện
công cộng đã được phát triển hơn trăm năm trước khi xe ô tô trở nên phổ
biến, không nhìn thấy sự cần kíp của quá trình quân bình hóa phương tiện
di chuyển cá nhân. Từ đó, họ hài lòng phần nào với sự độc quyền và xa
hoa của phương tiện di chuyển mang danh nghĩa quốc dân.
Sự vô định của chủ
nghĩa dân tộc vật chất
Với những phân tích
nói trên, có thể thấy rõ sự kết nối không thể tách rời giữa công nghiệp
ô tô và chủ nghĩa dân tộc của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, nếu
quốc gia đó may mắn có đủ nguồn lực để “khởi nghiệp” ngành công nghiệp ô
tô của mình. Xe ô tô trở thành một phần bản năng của loài người trong
trật tự xã hội mà họ tồn tại.
Như bất kỳ nền công
nghiệp mới nổi nào, sự xuất hiện của ngành công nghiệp xe hơi là một
điềm lành, là dấu hiệu của một nền công nghiệp tự cường và khơi nguồn
của tự hào dân tộc.
Như danh tính mà
Toyota xây dựng cho người Nhật, như danh tính mà Huyndai xây dựng cho
người Hàn, Vinfast là niềm hy vọng của một bộ phận lớn của người dân
Việt Nam. Rất tự nhiên, và cũng rất dễ hiểu.
Khi mà văn hóa giao
thông Việt Nam vẫn còn lệ thuộc lớn vào xe máy, Vinfast ra đời khá đúng
lúc và đúng nơi.
Ở một góc độ nào
đó, Vinfast có khả năng dẫn Việt Nam đi vào thời kỳ “di động bán riêng
tư” bằng xe ô tô (quasi-private mobility), vốn đã được chứng minh là có
khả năng khuất phục mọi phong trào di động tư hay công khác: từ đi bộ,
đi xe đạp, đi tàu hỏa, tàu điện ngầm hay kể cả xe máy.
Chính họ cũng có
khả năng định hình cách mà các chính quyền của tương lai cân nhắc hệ
thống công cộng trong quá trình hiện đại hóa văn hóa và tư duy của dân
tộc, hay thậm chí tái tổ chức thói quen của quốc dân trong công việc,
giải trí, du lịch và sinh sống. Những thứ mà có thể họ không quen, hoặc
không cảm thấy khi dùng một hãng ô tô nước ngoài.
***
Vấn đề ở chỗ, xây
dựng tư duy dân tộc dựa trên vật chất và các ngành công nghiệp chưa bao
giờ là một con đường an toàn hay ổn định. Rolls-Royce, niềm tự hào ngời
ngời của người Anh sau nửa thế kỷ huy hoàng, cuối cùng cũng bị người Đức
mua lại.
Jeremy Clarkson,
cây đại thụ của làng văn hóa ô tô của Anh cũng như thế giới, bức
xúc trên tờ Sunday Times vào năm 2002:
“Toàn bộ ý nghĩa của Rolls nằm ở việc chúng được những người thợ Anh
chải chuốt bằng keo vuốt tóc Brylcreem (một hãng mỹ phẩm lâu đời gốc Anh
– ND), mày mò sản xuất ở xứ Crewe (công xưởng gốc của Rolls – ND).
Rolls mà được các tay thợ Đức sản xuất thì chả khác gì Hoàng gia Anh
thiết đãi thực khách nước ngoài món sushi trong buổi trà chiều ngoài
vườn Điện Buckingham.”
Tính biểu tượng,
tính gắn kết của quốc dân từ đó không cánh mà bay.
Chính bản thân
Vinfast hiện nay có vẻ cũng chật vật trong việc xác định một thứ triết
lý dân tộc chủ nghĩa mà họ theo đuổi.
Người Mỹ theo đuổi
tự do cá nhân và bình quân hóa. Người Anh theo đuổi sự sang trọng, sự
hoàn hảo và những trải nghiệm thượng hạng. Người Đức theo đuổi sự vượt
trội kỹ nghệ khó ai bì. Người Nhật nhấn mạnh sự ổn định, sự đáng tin
cậy. Trong khi đó, người Hàn tăng cường “bám trend”, theo đuổi tích hợp
những công nghệ mới nhất.
Người Việt sẽ theo
đuổi gì trong sản xuất ô tô của “chủ nghĩa Vinfast” để biến nó trở thành
độc nhất, thật sự trở thành niềm tự hào dân tộc mà phần đông cộng đồng
mong mỏi?
Vinfast sẽ còn ở
lại, và sẽ tiếp tục phát triển trong phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt
Nam. Nhưng thiếu vắng một niềm tin, một nền triết học dân tộc, một tư
duy sản xuất dân tộc, chúng ta vẫn chỉ là những kẻ cơ hội lướt sóng chủ
nghĩa tư bản trong vỏ bọc xã hội chủ nghĩa mà thôi.
|