Gần đây một
số báo chí nước
ngoài có những
bài viết đánh
giá về vai trò
của ông Hồ Chí
Minh trong giai
đoạn cuối đời
(1963-1969). Có
ý kiến cho rằng,
giai đoạn này
ông Hồ Chí Minh
đã bị đảng Lao
động Việt nam vô
hiệu hóa.
Chúng tôi có
cuộc trao đổi
với nhà văn Vũ
Thư Hiên, một
người từng là
nạn nhân trong
cái có tên gọi
chính thức là
“Vụ án tổ chức
chống Đảng,
chống Nhà nước
ta, đi theo chủ
nghĩa xét lại
hiện đại và làm
tình báo cho
nước ngoài”.
Sau đây là nội
dung của cuộc
PV:
Thưa ông, một
số học giả nước
ngoài đánh giá
rằng, sau HN
Geneve đã có sự
rạn nứt trong
nội bộ đảng Lao
động VN. Đảng
phân hóa thành
hai nhóm có
chính kiến khác
nhau trong vấn
đề thống nhất
đất nước. Theo
đó nhóm ôn hòa
của các ông Hồ
Chí Minh - Võ
Nguyên Giáp phản
đối nối lại
chiến tranh và
nhóm chủ chiến
của ông Lê Duẩn-
Lê Đức Thọ,
những người cho
rằng việc giải
phóng Miền Nam
không thể chờ
đợi. Xin ông
đánh giá về ý
kiến này
VTH: Khi
nhà báo quan tâm
chuyện nội bộ
ĐCS, mà lại đi
hỏi người ngoài
cái đảng ấy, thì
rõ ràng đây là
một cách tiếp
cận độc đáo, và
thú vị nữa, theo
tôi nghĩ. Thôi
thì biết gì nói
nấy, hi vọng cái
mà tôi cho rằng
mình biết có thể
cung cấp cho nhà
báo một chút ánh
sáng le lói trên
cái nền mờ mịt
những thông tin
chính thống.
Tôi hiểu cái khó
của người nghiên
cứu xã hội cộng
sản. Theo cách
văn bản học ư?
Thật không dễ.
Không phải chỉ
nắm vững những
khái niệm đặc
thù trong ngôn
ngữ cộng sản để
diễn dịch những
văn bản nọ sang
khái niệm thông
thường mà đủ.
Còn phải biết
lắm thứ ngoài
lề: lý do xuất
hiện, nội dung
thực, thậm chí
cả văn phong
người khởi thảo…
Biết bằng ấy thứ
mới có thể tàm
tạm hiểu được
(nói cho đúng:
để đoán được)
mục đích và cách
thực hiện mục
đích ấy của nó.
Ấy là chưa kể
cũng những văn
bản ấy người
nghiên cứu lại
thấy có nhiều
cách giải thích
khác nhau cho
những cấp độ
khác nhau, cho
những đối tượng
khác nhau, một
thứ kỳ cục được
chúng tôi gọi là
sự “phân phối
chân lý theo đại
lý”.
Vậy, để trả lời
cho câu hỏi: có
hay không có hai
luồng chính kiến
khác nhau trong
vấn đề thống
nhất hai miền
Nam-Bắc VN sau
Hiệp định Genève
1954 trong nội
bộ ĐCS, tôi xin
thưa rằng: có
đấy. Bề ngoài,
theo các văn
bản, là chủ
trương hoà bình
thống nhất đất
nước thông qua
tổng tuyển cử.
Nhưng bề trong
nó là sự chuẩn
bị thống nhất
đất nước bằng
“bạo lực cách
mạng” (căn cứ
những bài nói
chuyện với những
câu nói nước đôi
để người nghe
hiểu ngầm ý của
diễn giả). Ngày
nay, việc ĐCS
(hoặc Trung ương
cục Miền Nam)
cài người ở lại,
chôn giấu vũ khí
ở phía Nam vĩ
tuyến 17, để
chuẩn bị chiến
đấu không còn là
bí mật. Theo
những tài liệu
đã được bạch hoá
thì đó là chủ
trương của Lê
Duẩn, người lãnh
đạo Trung ương
cục Miền Nam,
chứ không phải
của Trung ương
ĐCS, ngay từ
trước khi Lê
Duẩn thực sự cầm
ấn tín chức vụ
Bí thư Thứ
nhất.
Dư luận, cái
đáng tin cậy hơn
báo chí, cho
rằng trong Trung
ương ĐCS sau
Hiệp định Genève
có Hồ Chí Minh
và Võ Nguyên
Giáp là người
chủ trương thống
nhất đất nước
bằng con đường
hoà bình, hay
nói cho đúng
hơn, không tiến
hành chiến
tranh, giữ
nguyên trạng hai
miền Nam Bắc
cùng tồn tại,
“rồi sau tính
tiếp”. Ngược
lại, chủ trương
“chỉ có uýnh”
mới giải quyết
được chuyện
thống nhất đất
nước thuộc Lê
Duẩn, có Lê Đức
Thọ phù tá. Với
bản “Đề cương
cách mạng miền
Nam” (1956) mọi
hành động của Lê
Duẩn sau đó là
nhất quán. Nếu
Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp im
lặng trong suy
nghĩ của mình,
thì Lê Duẩn
không giấu giếm
những phát biểu
mạnh mẽ (tất
nhiên, chỉ trong
những cuộc họp
phổ biến chủ
trương hay nghị
quyết mà thôi)
chê bai hai
người kia là
những kẻ nhát
gan, sợ hãi bạo
lực cách mạng.
Thưa ông, sự
bất đồng ấy phải
chăng là nguyên
nhân dẫn tới Vụ
án chống đảng
lúc bấy giờ?
VTH: Tôi
sẽ hơi dài dòng
một chút trong
chuyện này. Có
lẽ do hoàn cảnh
cá nhân của tôi
- trong một gia
đình gắn bó máu
thịt với cuộc
đấu tranh giải
phóng dân tộc,
được tiếp xúc
nhiều với những
người sau này
trở thành những
nhân vật đứng
đầu ĐCS và nhà
nước, tôi không
thần thánh hoá
những “lãnh tụ”
nọ. Khi bỏ tù
tôi người ta gọi
cái tật đó của
tôi là “gần chùa
gọi bụt bằng
anh”. Nhưng theo
những gì tôi
quan sát được
thì chính trị
khi cởi bỏ quần
áo, nó rất đời
thường, rất thế
tục, chẳng có gì
là thiêng liêng
hết. Vì lẽ đó mà
tôi xem cách
chia hàng ngũ
những người cộng
sản cầm quyền
(chứ không phải
những người cộng
sản trong giai
đoạn cách mạng
còn trứng nước)
thành những phe
nhóm đối lập về
lý thuyết cách
mạng như một cái
gì đó, xin lỗi,
hơi cù lần.
Nhìn vào lịch sử
các đảng cộng
sản (đã cầm
quyền, tôi nhấn
mạnh lần nữa)
thì thấy cái sự
tàn sát lẫn nhau
trong những
người cùng hàng
ngũ thì thấy.
Không phải chỉ
vì khác nhau
trong cách hiểu
chủ nghĩa Marx
mà Stalin mang
Kamenev,
Zinoviev ra bắn,
cho người lần
theo Trotsky tới
tận nơi lưu vong
mà đập vỡ sọ.
Không phải vì
giận Lưu Thiếu
Kỳ “đi theo con
đường tư bản chủ
nghĩa” mà Mao
Trạch Đông đày
đoạ người đồng
chí từ thuở đảng
còn trong trứng
nước tới chỗ
phải bò như con
chó tới đĩa cơm
trong nhà ngục
và chết gục với
cái xác thối
khắm.
Không, những
người cộng sản
cầm quyền mà tôi
biết không hề có
lòng căm thù
sang trọng đến
thế đâu. Câu
chuyện vì sao mà
Lê Duẩn – Lê Đức
Thọ phải trấn áp
tàn bạo cái gọi
là “nhóm xét lại
chống Đảng” là
một câu chuyện
dài, xứng đáng
cho một cuốn
sách, khó có thể
nói ngắn. Nhưng
cũng có thể nói
tóm tắt thế này.
Ai cũng biết
rằng sau sai lầm
đẫm máu của cuộc
cải cách ruộng
đất long trời lở
đất, tướng Võ
Nguyên Giáp với
sự vô can của
quân đội, với
vòng nguyệt quế
Điện Biên Phủ,
lẽ ra phải có
địa vị lớn hơn
nhiều cái mà Hồ
Chí Minh và
Trường Chinh đã
sắp xếp cho ông
ta. Hai vị lãnh
tụ ngã ngựa lựa
chọn Lê Duẩn chứ
không phải Võ
Nguyên Giáp cho
vai trò Bí thư
thứ nhất với hi
vọng người này
sẽ ngoan ngoãn
khoanh tay xin ý
kiến hai Thái
thượng hoàng
trong mọi việc.
Sự đời lại không
diễn ra như
thế.
Để khẳng định vị
trí độc tôn của
mình khi đã nắm
quyền, Lê Duẩn
thấy cần phải hạ
bệ Võ Nguyên
Giáp, kẻ hơn hẳn
mình về uy tín
và ảnh hưởng
trong đảng và
trong dân chúng.
Nhổ cái dằm
trong mắt ấy đi
là ý muốn của
ông ta. Những
việc làm sau đó,
do Lê Đức Thọ
đạo diễn bằng
cách tung ra
những “bằng
chứng” Võ Nguyên
Giáp là con nuôi
mật thám Pháp,
Võ Nguyên Giáp
thề thốt trung
thành với nước
mẹ Đại Pháp
trong đơn xin đi
du học Pháp, Võ
Nguyên Giáp liên
lạc với ban lãnh
đạo ĐCSLX một
cách vô nguyên
tắc, để rồi sau
hết nhân danh
cuộc đấu tranh
lý thuyết không
khoan nhượng
giữa “hai đường
lối”, cụ thể hoá
trong dạng một
mưu đồ đảo chính
của “"nhóm xét
lại chống Đảng"
nhờ sự ủng hộ
của nước ngoài
(hiểu ngầm là
Liên Xô). Tất cả
những việc đó
đều nhằm vào kẻ
“cầm đầu” là Võ
Nguyên Giáp, xét
cho cùng, chúng
chỉ là sự thực
hiện ý muốn của
Lê Duẩn mà thôi.
Theo ông việc
thanh trừng
những người theo
chủ trương ôn
hòa có phải phản
ảnh sự thất thế
của ông Hồ Chí
Minh trong giai
đoạn đó? Ông có
đánh giá gì về
nhận định cho
rằng “ông Hồ Chí
Minh cuối đời đã
bị Đảng vô hiệu
hóa?”
VTH: Tôi
phải nói thêm
một lần rằng tôi
có cái tật cố
hữu hay thế tục
hoá những việc
làm có bề ngoài
sang trọng, thậm
chí được tâng
bốc là thiêng
liêng của các vị
“lãnh tụ” trong
ngoặc kép.
Không, không
phải vì chủ
trương ôn hoà mà
ông Hồ Chí Minh
bị thất thế. Và
có thật là Hồ
Chí Minh bị thất
thế hay không
nữa chứ? Chỉ có
thể dùng chữ “bị
thất thế” khi
người có thế bị
cưỡng đoạt cái
thế mình có. Còn
nếu sự rời bỏ
cái thế mà mình
có ấy theo cách
tự nguyện, hoặc
bị dẫn dụ tới sự
tự nguyện, thì
không thể và
không nên gọi là
thất thế.
Theo những nhận
xét tôi nghe
được từ những
người cộng sản
có thâm niên
đáng trọng,
ngang hoặc còn
hơn Lê Duẩn, thì
Lê Duẩn là người
nhiều tham vọng.
Ông ta không cho
phép mình hài
lòng chỉ với
chức vụ Bí thư
thứ nhất, mà
muốn hơn thế -
một lãnh tụ vô
song, một thần
tượng trong ngôi
đền cộng sản,
nếu không hơn
thì cũng ngang
bằng Hồ Chí
Minh. Đối với
Trường Chinh, Lê
Duẩn không ngại.
Sau cải cách
ruộng đất, uy
tín Trường Chinh
đã xuống tới mức
thấp nhất. Tuy
nhiên, để cẩn
thận, Lê Duẩn đã
dùng Lê Đức Thọ
trong vai trò
Trưởng ban Tổ
chức Trung ương
sắp xếp lại toàn
bộ hệ thống đảng
quyền và chính
quyền ở miền
Bắc, xoá bỏ mọi
dấu vết của
người tiền nhiệm
(tuy Trường
Chinh đã không
dám cục cựa, rất
ngoan ngoãn ngồi
yên trên ghế Chủ
tịch Quốc Hội).
Nhưng còn thần
tượng Hồ Chí
Minh, người đã
được tôn sùng là
Cha già dân tộc
thì sao? Ông ta
không có một
khuyết điểm nào
khả dĩ chê trách
hoặc tấn công.
Nhưng nếu ông
vẫn còn ngồi lù
lù đấy thì thiên
hạ sẽ tiếp tục
nghĩ ông ta vẫn
là Tổng chỉ huy
các lực lượng
cách mạng, chứ
không phải Lê
Duẩn. Vậy thì
cách tốt nhất là
tìm cách đưa ông
vào đền thờ làm
tượng, cho ông
ngồi trên cao
say hương mê
khói mà không
nhúng tay vào
việc nước nữa.
Lúc đó thiên hạ
sẽ hiểu người có
quyền uy tối
thượng, ở trên
tất cả ngày nay
là ai.
Tôi không thể
nói chuyện đó
xảy ra vào thời
điểm cụ thể nào.
Chỉ biết năm
1965, trong một
cuộc nói chuyện
với cán bộ tuyên
giáo ở Hưng Yên,
trưởng ban Tuyên
giáo Trung ương
Tố Hữu nói:
“Ông Cụ lẫn cẫn
rồi, mọi việc
bây giờ đều do
anh Ba (Lê Duẩn)
và tụi tôi giải
quyết”. Có
thể đoán là
trước đó, năm
1964 hoặc sớm
hơn, 1963, việc
đó đã xảy ra.
Không còn Hồ Chí
Minh trong vai
trò người thầy
của cách mạng,
Lê Duẩn ung dung
làm người thầy
mới với lý
thuyết “Làm chủ
tập thể”, “Ba
dòng thác cách
mạng”, “Cách
mạng tiến công”.
Những lý thuyết
này được cả một
bầy văn nô tung
hô trên mọi mặt
báo và khen tới
khản giọng trong
những cuộc “nói
chuyện” hoặc
“học tập” nghị
quyết này khác.
Cuộc gọi là
“Tổng tiến công
và nổi dậy” 1968
được tiến hành
trong lúc vắng
mặt cả Võ Nguyên
Giáp (đi dưỡng
bệnh ở Hungary)
và Hồ Chí Minh
(đi nghỉ ở Trung
Quốc) không thể
coi như Lê Duẩn
ép buộc. Rõ ràng
Lê Duẩn không
muốn hai người
có ý nghĩ khác
ông ta có mặt
vào thời điểm
đó, nhưng tôi
không tin có sự
ép buộc nào.
Chẳng qua Lê
Duẩn đã có cách
nào đó để hai
người nghe lời
mà đi nghỉ (đưa
ra những lời
khuyên của thầy
thuốc chẳng
hạn). Nhân đây
tôi cũng muốn
nói việc có
người viết Lê
Duẩn có ý ám hại
Hồ Chí Minh là
bậy, không thể
tin. Thí dụ như
vụ máy bay chở
Hồ Chí Minh khi
bay về Việt Nam
đã buộc phải hạ
cánh mù theo cảm
tính của phi
công chứ không
chịu hạ cánh
xuống một đường
băng giả hiệu.
Người ta bịa, mà
không hiểu rằng
để làm một hệ
thống tín hiệu
bằng đèn cho cả
một đường băng
không thể dùng
một người, và
một âm mưu như
thế không thể
cho nhiều người
biết. Nếu Lê
Duẩn có ý ấy,
ông ta có thể có
nhiều cách đã
trở thành kinh
điển trong những
vụ ám hại nhau
trong nội bộ các
đảng cộng sản mà
ta đều đã được
biết qua nhiều
tài liệu bạch
hoá.
Xin cảm ơn
nhà văn Vũ Thư
Hiên
(On the Net)