Trong dịp
Tết này, có thể nói là nhiều
chuyện bất ngờ xuất hiện, trong
đó, những chuyện tưởng chừng rất
đơn giản lại là chuyện động
trời, nó vô hình trung lôi cả
sợi xích dài vốn dĩ đã chôn sâu
trong thớ đất lịch sử. Điển hình
nhất là câu chuyện nhà nguyên
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp
đoàn khách đến chúc Tết, hình
ảnh phòng tiếp khách lộng lẫy
với hai chiếc ghế mô phỏng ngai
vàng của hoàng tộc Anh, nhìn
sang trọng hơn cả chiếc ngai
vàng trong cung đình Huế, vì
theo một phân tích của một nghệ
nhân chuyên đóng ghế kiểu cỗ thì
hai chiếc ghế trong nhà Nông Đức
Mạnh làm bằng gỗ huỳnh đàn, mạ
vàng, có giá trị mỗi chiếc lên
đến gần một triệu USD.
Vô tình, lối
sống vương giả, xa hoa của một
cựu quan chức Cộng sản Việt Nam
giữa lúc nhân dân không có đất
để sống, phải nằm lây lất giữa
Hà Nội mà kêu oan, nông dân
không có tiền ăn Tết, đất nước
nghèo nàn lạc hậu… đã chạm đến
sợi dây trắc ẩn của lịch sử Việt
Nam. Điều này cho thấy nhân dân
Việt Nam chưa bao giờ có tự do
và bình đẳng, hết sống trong
cảnh cúi đầu nô lệ thời phong
kiến lại chuyển sang sống trong
cái ách kìm kẹp Cộng sản xã hội
chủ nghĩa. Người dân chưa bao
giờ sống trọn vẹn ý nghĩa một
con người.
Vì sao
phải nói như vậy? Vì hai lý do:
đó là sự giuống nhau và khác
nhau của hai chế độ Phong kiến
và Cộng sản. Tại sao hai sự
giống nhau và khác nhau lại liên
quan đến vấn đề dân tộc Việt
Nam? Vì lẽ, đây là hai mặt của
một vấn đề, nó có tính bổ sung
cho nhau trong quá trình nô lệ
hóa và ngu dân hóa dân tộc Việt
Nam nhằm củng cố quyền lực phe
nhóm, quyền lực đảng và cái đến
sau bao giờ cũng ma mãnh, tinh
vi và độc ác hơn so với sự mới
hình thành, thô sơ, ấu trĩ của
cái trước.
Trước
nhất, có lẽ nên nói về sự khác
nhau giữa nhà nước Cộng sản xã
hội chủ nghĩa và nhà nước phong
kiến. Đương nhiên là sự khác
nhau tương đối rõ nét, từ kinh
tế cho đến văn hóa, giáo dục, và
chính trị. Nhà nước Cộng sản xã
hội chủ nghĩa đã đạt được những
bước tiến so với nhà nước phong
kiến về trình độ kĩ thuật, về
kiến thức nền cũng như cung cách
sắp xếp, bố trí quyền lực trong
nội bộ.
Và cái
khác nhau rất căn bản giữa hai
thứ nhà nước này là triều đại
phong kiến có nhiều ông vua, mỗi
ông đảm nhận một quãng đường
trong lịch sử cai trị, trị vì
của mình. Khác với triều đại
Cộng sản Việt Nam có thể có
nhiều ông vua cùng một lúc và
những ông vua này biết chia chác
quyền lực cũng như biết huy động
quyền lực để mình vẫn là một ông
vua, các đồng chí khác cũng là
một ông vua nhưng cùng nhau tồn
tại để hưởng vinh hoa phú quí,
để biến các con mình thành thái
tử, hoàng tử, các bà vợ thành
những bà hoàng tột đỉnh quyền
lực trong lãnh địa của mình.
Điều mà
nhà nước phong kiến về mặt bản
chất vẫn giống y hệt nhà nước
Cộng sản nhưng lại ấu trĩ trong
việc tranh giành quyền lực, đã
tập trung quyền lực về một người
và tranh giành cái ngôi vị ấy
cho đến máu chảy đầu rơi thay vì
nhân ra nhiều ngai vàng như
triều đại Cộng sản đang làm.
Đó là sự
khác nhau tương đối giữa hai
loại triều đại này. Về mặt bản
chất, giữa phong kiến và Cộng
sản chỉ là một, khác nhau chăng
là ở mặt hình thức, ngay từ
trứng nước, Cộng sản là đứa con
đẻ mang đầy đủ gen trội cũng như
tố chất bóc lột của nhà nước
phong kiến.
Có ba
điểm dễ nhận dạng nhất khi nói
rằng Cộng sản là con đẻ của
phong kiến: Tất cả giới quan lại
Cộng sản hiện tại đều có xuất
thân từ bộ máy phong kiến trước
đây và họ đã dùng chiêu bài “vô
sản” để tiêu diệt lẫn nhau nhằm
tập trung quyền lực vào một nhóm
phong kiến nhỏ như Hồ Chí Minh,
Võ Nguyên Giáp, Tôn Đức Thắng,
Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh,
Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… Tất cả
các nhân vật này đều là thành
phần gia đình quan lại phong
kiến cộm cán, có tội ác với nhân
dân và khi họ nhìn ra được là
không bao lâu nữa, ngọn gió văn
minh từ mẫu quốc Pháp sẽ thổi
bạt gia tộc và quyền lợi của họ.
Họ đã chọn con đường Cộng sản,
mượn chiêu bài vô sản để duy trì
quyền lực theo hình thái mới, đó
là Cộng sản xã hội chủ nghĩa.
Đương
nhiên là ngay từ đầu, họ chưa
dám xưng mình là Cộng sản, họ
mượn danh Việt Minh để lợi dụng
nhân dân, đến khi đủ lông đủ
cánh, đợi các đảng đồng loạt
cướp chính quyền năm 1945, họ
thủ sẵn cờ đỏ búa liềm của đảng
Cộng sản để treo lên khắp nơi
nhằm cướp công của các đảng khác
và bắt đầu công cuộc thanh
trừng, ám sát các đảng phái khác
để tập trung quyền lực về tay
nhóm Cộng sản. Công cướp chính
quyền là công của nhiều đảng,
nhưng điều mà nhân dân được thấy
chỉ là cờ đỏ búa liềm trên mọi
nóc nhà, mọi cột cờ, mọi ngọn
cây.
Sau khi
ám sát mọi đảng phái, công cuộc
thanh trừng nội bộ nhằm đảm bảo
quyền lực thống trị lâu dài bắt
đầu. Và để đảm bảo thống trị lâu
dài, đảng Cộng sản chưa bao giờ
trả cái quyền sở hữu đất lại cho
nhân dân. Họ mượn chiêu bài “sở
hữu toàn dân do nhà nước quản
lý” để giao cho dân quyền sử
dụng và sử dụng lâu dài đất đai
của chính nhân dân. Trong khi
đó, quyền sử dụng về mặt bản
chất không phải là quyền mà chỉ
là một trong ba thuộc tính của
quyền sở hữu, một khi có quyền
sở hữu thì người ta có
được ba thuộc tính: chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt. Mới gọi là
quyền.
Người dân
suốt mấy mươi năm nay chỉ có
quyền sử dụng đất, việc sử dụng
này chỉ đóng vai trò canh tác để
kiếm cái mà tồn tại qua ngày và
giữ giùm đất cho các nhóm quyền
lực Cộng sản. Đến khi các nhóm
này cần, họ sẽ ngang nhiên định
đoạt và chiếm hữu đất trên tay
nhân dân để làm giàu cho gia
định họ. Vấn đề này, về mặt bản
chất, phong kiến và Cộng sản chỉ
là một. Phong kiến bảo rằng đất
của vua, Cộng sản bảo rằng đất
của toàn dân do bọn tao quản lý,
khi cần thì bọn tao lấy lại, lấy
để làm gì là chuyện của bọn tao,
vì bọn tao là đại diện lãnh đạo
ưu tú của toàn dân. Vậy thôi!
Và cũng
chính vì cái bản chất gian ác,
giảo hoạt của chế độ phong kiến
chuyển hóa thành Cộng sản trong
một môi trường kĩ thuật tương
đối hiện đại, mới mẽ, lợi tức
của nhân dân cũng khá hơn rất
nhiều so với thời phong kiến mà
các ông vua Cộng sản nhanh chóng
giàu có, hoành tráng và mức độ
giàu có của vua Cộng sản cao hơn
nhiều so với các ông vua phong
kiến.
Các triều
đại phong kiến kéo dài gần năm
thế kỉ tại Việt Nam, tổng số các
ông vua của họ không quá 100
ông. Trong khi đó, triều đại
Cộng sản chỉ có mặt tại miền Bắc
chưa đầy 100 năm và tại miền Nam
chưa đầy 50 năm, số lượng các
ông vua Cộng sản có thể lên đến
trên 1000 ông. Chỉ riêng Bộ
chính trị, hơn bảy mươi năm nay,
đã có gần một trăm ông vua, đó
là chưa kể đến các loại vua như
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Chủ tịch các ủy ban trực
thuộc trung ương, Chủ tịch các
Hội, Đoàn. Và ở mỗi địa phương,
người đứng đầu tỉnh thành cũng
là một ông vua. Sáu mươi tư tỉnh
thành, nếu chỉ tính từ 1975 đến
nay cũng đã có trên 600 ông vua.
Và mỗi ông vua chiếm cho mình
một lượng đất đai, tài sản đủ
dùng cho ba đời đến năm đời… Hãy
tưởng tượng mức độ mất đi của
tài nguyên quốc gia, tưởng tượng
số lượng tài sản đã rơi vào tay
các loại vua này.
Nhưng, dù
sao, câu chuyện làm vua làm chúa
của người Cộng sản trước đây còn
có chút “tế nhị”, họ biết giấu
diếm. Cho đến bây giờ thì lại
khác, họ không những không cần
giấu diếm mà còn phô trương sức
mạnh cũng như sự giàu có của họ.
Không riêng gì Nông Đức Mạnh có
phòng tiếp khách trị giá triệu
đô, có ghế ngồi trị giá tiền tỉ,
mà hầu hết các vua Cộng sản đều
có những thứ tài sản mà nếu còn
sống, các ông vua phong kiến
phải nhỏ dãi thèm thuồng. Ví dụ
như cái ngai vàng trong hoàng
cung Huế, cũng bằng gỗ huỳnh đàn
nhưng đai và lưng dựa rất xấu,
thấp, nặng không đến 100kg.
Nhưng cái
ghế của Nông Đức Mạnh, bằng gỗ
huỳnh đàn có dát vàng, với kích
cỡ đó, mỗi chiếc phải nặng trên
120kg. Vì huỳnh đàn là loại gỗ
rất nặng, giá mỗi ký lô trên thị
trường dao động từ 25 triệu đồng
đến 30 triệu đồng. Với 120kg,
chỉ tính riêng gỗ thô không thôi
đã lên trên 3 tỉ đồng. Và không
phải ai cũng có thể tìm ra gỗ
huỳnh đàn khối để mua về đóng
ghế, ngoại trừ các ông vua Cộng
sản.
Trong một
đất nước mà nhân dân không có
quyền sở hữu, không có quyền tự
do trong khi đó lại có quá nhiều
ông vua và các ông vua này chưa
bao giờ ngừng tùng xẻo tài
nguyên quốc gia để thâu tóm về
gia đình, dòng tộc. Và cũng
không ngoại trừ việc một vài
người trong số họ đã bán lãnh
thổ quốc gia cho ngoại bang để
làm giàu. Thử nghĩ, đất nước này
sẽ về đâu nếu như một ngày nào
đó, số lượng con vua, cháu vua
nổi lên lúc nhúc và thi nhau
tùng xẻo đất nước, lại thiết lập
cho họ một ngai vàng… Thì nhân
dân sẽ sống ra sao? Dân tộc này
sẽ về đâu? Thật là đáng sợ!