Ghi Riêng về Khâm Thiên
Cuối 1972-Đầu 1973 Nhật ký
Vương Trí Nhàn
29/12/1972
Gần như mỗi ngày, tôi ra Khâm Thiên lại thấy một khác. Hôm nay, y như
một công trường. Nước dềnh lên trên lòng đường. Máy đứng, cái tay gầu
xoay ngang xoay dọc.
Nhiều kíp thợ cùng làm việc. Những cô Thanh niên xung phong
hay những cô phu hồ, thôi gọi thế nào chẳng được. Giờ nghỉ, các
cô ngồi chật cửa hàng bún, bánh.
Vài người thợ điện ngồi vắt vẻo trên cột điện kéo lại đường dây. Mấy bác
lo chữa điện trong các gia đình thì cầm theo một đống công tơ. Cả thành
phố đều có việc. Cả thành phố không thể vô can đối với sự kiện này.
Lâu nay đối với mỗi gia đình Hà Nội, cuộc chiến tranh mới là sự vắng
mặt của người thân. Những ngày hòa bình như một thứ quá khứ vẫn còn hiện
diện.
Từ nay, với Khâm Thiên, cả cái quá khứ hôm qua cũng đã đi xa. Ta có một
quá khứ khác.
Khâm Thiên như một cái gì đó chỉ ra rằng lâu nay Hà Nội đã có một bộ mặt
mới mà ta không biết, nay với Khâm Thiên ta bắt đầu biết. Mỗi lần, có
chuyện gì đấy, chúng ta lại nghĩ tới Khâm Thiên.
Mai đây ra sao? Có phải chiến tranh đến với thành phố là phải ngưng
lại? Không chắc! Nguyễn Minh Châu thì bảo không biết đây là mở đầu, hay
là kết thúc của cái thời chiến như một đêm đen dài dằng dặc này nữa.
Có một Hà Nội ở sau các phố xá. Thường đi qua Hàng Bột, nhìn qua lối
ngõ, tôi vẫn cứ thấy một vệt rau màu xanh. Tôi biết có một Hà Nội bề mặt
và Hà Nội sau lưng cái bề mặt ấy, một Hà Nội các xóm nghèo.
Không một quả bom nào rơi trúng lòng đường Hà Nội. Phố Khâm Thiên cũng
vậy. Nên lần nào đến Khâm Thiên, tôi cũng đi vào phía trong của phố.
Hóa ra nơi đây, có một cái hồ lớn, chứa nước cống của thành phố.
Còn nhớ hôm nọ, trong đêm, tiếng nước rơi xuống đá kêu lanh tanh.
Đoàn Công Tính tỏ ý hơi lạ khi những người dân hai bên hồ vẫn ra hồ rửa
ráy. Nhưng Hà Nội lâu nay vẫn vậy.
Thành phố chúng ta nghèo như một cách sống nhũn nhặn, một niềm chung
thuỷ, một triết lý bám vào cuộc sống mà sống.
Những mảnh đất bị bom được san lại. Cố sống cố chết, người ta kiếm được
ít cọc đóng quanh nền. Người ta dựng tạm lên một túp lều. Hà
Nội mà lên lại nhà cửa của mình thì lạ lắm. Tôi đã thấy những túp lều
chụp ni lông. Những mái gác phủ bạt. Những cái nhà, cả mái, cả cái gọi
là tường, đều quây bằng một thứ bao tải muối.
Nhưng mà cốt sao được một chỗ che mưa nắng. Vì trong khi đó, tết vẫn
đến, cái tết tưởng như tuần tự, mà sao vẫn êm đẹp và đầy hy vọng. Gian
nhà ấy bị hơi bom làm sụt một góc, người ta dựng tạm làm cửa hàng. Đó là
một hiệu may, những miếng vải nằm một xếp dài trên bàn, một cô gái vào
thử áo vi ny lon trông
khá diện, cô chủ hiệu trông cũng nhẹ nhõm. Tưởng như không hề có vụ B.52
hôm trước. Công việc làm ăn kéo đi.
Tôi hiểu người ta phải làm thế để kiếm lấy một cái tết.... Rồi sớm mai
mồng một, mới thấy người ta ngồi, người ta khóc vì những mòn mỏi của
kiếp người, về việc hợp và tan, làm và nghỉ, hy vọng và vô vọng – cuộc
đời là tất cả những cái đó, nó dường như vô nghĩa, mà dường như rất có
nghĩa.
Chiến tranh đến một thành phố, nghĩa là gạch, gạch đổ, bới gạch, bới
vôi. Đất hình như trước sau vẫn thế. Chỉ có nhìn gạch mới biết đổi thay
đổ vỡ là ghê gớm đến chừng nào. Những đống gạch lớn, tấp vào nhau. Phải
dỡ từng viên. Ngồi cạo cạo cho hết vôi. Rồi lại chồng thành đống, dựng
tạm làm tường.
Gạch là những gì cố định của một thành phố.
Chẳng phải hôm nọ, cậu Tụng nói nó sẽ đánh đến không còn một viên gạch
nguyên là gì.
Đến khu Khâm Thiên bây giờ, chỉ nghe đều đều một tiếng lạch cạch. Tiếng
của những con dao gõ vào gạch. Tiếng của thời gian.
Một thứ nhịp điệu riêng của Việt Nam? Không hẳn!
Với tình cảnh này, người ta tưởng tượng ra mọi cuộc chiến khác. Chẳng
hạn, chắc nhà cửa của những người tị nạn bên Palestin cũng thế.
Một triết lý về sự sống -- chịu đựng. Và trong đó sẽ nẩy sinh sự sống.
Nhưng lúc này mà đi tìm triết lý về cuộc đời là vô duyên. Người ta cốt
sống cái đã. Không muốn nghĩ…
Sao mà quên được những em bé ở Khâm Thiên. Nhiều nhất những em đi nhặt
rác. Đất ven Khâm Thiên xưa vốn là bãi rác. Những đứa trẻ “yêu Tổ quốc,
yêu đồng bào, sạch sẽ ngoan ngoãn” -- những đứa trẻ ấy đang đi nhặt rác.
Con gái cũng quần phăng, giầy ba ta cho gọn ghẽ. Mỗi đứa cắp một cái rá,
tay cầm một cái que bới. Bọn chúng quây lại đông nhất chung quanh một
cái xe ủi. Mỗi lần xe chạy qua một đống đất, ủi đi một lớp đất, sau xe,
lại phơi ra một lớp đất mới, trong đó lẫn cả mọi thứ vào trong gạch vụn.
Bây giờ thì thứ gì cũng quý.
Một lần khác, tôi không khỏi cay cay mắt trước cảnh một em bé khác chỉ
độ 4, 5 tuổi ngồi trên một đống gạch lủng củng. Trong khi mọi người ưu
tư lo lắng, một đứa trẻ còn có việc gì khác ngoài ngồi nghịch? Những cục
vôi trắng bay vẩn lên trong buổi chiều. Em chỉ có thứ đồ chơi là vôi vụn
gạch vụn...
Tôi vụt nghĩ một lần nào đó, sẽ được đọc một bài viết trong đó một thanh
niên kể tuổi nhỏ anh ta có những ngày chạy theo xe rác bên những hố bom
Khâm Thiên.
Hỏi mấy người ấn tượng về Khâm Thiên tối đầu tiên. Cô Cư bán hàng dưới
đó nhớ tiếng vịt kêu. Xuân Trình nhớ những bước chạy. Nhật Minh nhớ
những thân hình người chết nằm, đất phủ đầy đầu.
Với cậu Giao em họ tôi, Khâm Thiên ngày 27/12 là cảnh người nằm ngang
dọc ngổn ngang, mỗi người như một tầu lá chuối. Mùi hương thắp lên ghê
ghê. Đến nỗi về sau, mỗi lần ở nhà thắp hương, Giao vẫn hơi sợ.
30/12
Chiều đi với Tính. Nhà anh Hồng đốt sách dọn nhà.
Một người đàn ông dắt xe đạp giữa những hàng cây cụt ngọn. Những đống
gạch dọn được đổ ngay ra đường.
Cái âm khí của những ngày đầu tiên sau trận bom hiện ra ở những nét mặt
người. Người dân Hà Nội mất đi cái vẻ ranh mãnh bình thường. Chỉ còn đăm
đăm tập trung vào một việc nào đó.
2/1
/73
Ngõ chợ ngổn ngang. Người ta đổ các thứ ở nhà ra đường cái. Đống rác cao
đến mái nhà. Đường dắt xe đạp vồng lên vồng xuống.
Người ra vào rất đông. Nhiều người Hà Nội gặp nhau ở Khâm Thiên. Mỗi
người tìm lại cho mình một Hà Nội hôm qua. Đủ thứ ký ức thoáng hiện
trong câu chuyện.
Đứng trong đám quấn khăn tang nhặt nhạnh lại đồ lề, một người đàn
ông nhìn đám dong nhan đến xem, chửi:
-- Toàn một lũ vô công rồi nghề. Nhà người ta còn bận, ai dềnh dang được
như chúng nó.
Dòng chữ trên tường:
Anh X nhà an toàn cả. Anh có về, tìm đến...
Đông nhất là những đám lật đống vôi gạch đổ, tìm người. Xe ủi làm việc
tay gầu ngoạm vào đất, đổ ra. Cả trăm con mắt người đứng xem đổ dồn một
điểm. Một người nào đó kêu ầm lên: Thôi, có người rồi, thối quá...
Cũng như tất cả các khu phố khác của Hà Nội, Khâm Thiên mang trong mình
nhiều người, nhiều nghề nghiệp.
Hình như ý nghĩa Khâm Thiên là ở chỗ này: Khâm Thiên đại diện cho Hà
Nội. Lâu nay, Hà Nội đã cử người ra măt trận. Nhưng đôi lúc, chúng ta
vẫn tưởng rằng Hà Nội vô can, Hà Nội không dự gì vào cuộc chiến đấu này
cả. Chính những tàn phá hôm nay
chứng tỏ Hà Nội đã chia sẻ không thiếu thứ gì. Và, đã hỏng là hỏng nặng.
13/1
Người công nhân kể chuyện chữa lại cống. Ngõ chợ đã dọn sạch. Một người
chạy từ ngoài đường vào hỏi: Anh ơi cho hỏi số nhà 15 có việc gì không.
Một người xích lô chỉ vào chỗ xe ủi xúc gạch tìm người: Kìa ở chỗ kia,
đang thòi ra cái trán.
14/1
Người Khâm Thiên đi thăm nhau, một số ở xa về ra thẳng nghĩa trang.
19/1
Những gian nhà xếp gạch chồng thành tường. Cuộc sống đi vào hàng lối
trong cái thế đơn sơ của nó. Cho đến cả những mảnh giẻ rách cũng được
xếp vào một chỗ. Một đống khác: một vạt lông gà.
Một cây chuối còn sót lại trở thành cọc tiêu cho người ta dóng hướng.
Cuộc tìm bới những nhà cũ, chỉ kết thúc, khi người ta tìm thấy nền.
Thu dọn vôi gạch thế nào, cuối cùng cũng phải làm trơ ra cái nền.
Như là tất cả được xem xét lại. Đồ lề mỗi nhà được đánh giá lại. Lúc
này, người ta mới hiểu người ta có những thứ gì.
Cho đến việc lấp hố bom, cũng chỉ hoàn thành, khi đủ đất san thành nền.
Ở nhiều nhà trên cái nền đất phố, lúc này mới thấy lật ra cái hầm cá
nhân. Có lẽ lâu nay chỉ có căn hầm là cái gì ở sâu hơn hết trong mỗi nền
nhà.
25/1
Em bé đội bao tải lông gà giẻ rách, cầm tờ báo xuân đọc. Một em nói với
một em khác: “Chị còn được bố. Em mất cả mẹ, mất cả bố”.
Rồi cuộc sống Hà Nội lại bừng lên trong những buổi tối. Nếu như buổi
tối mà vắng vẻ, thì còn gì là Hà Nội nữa.
Ở cái thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, người ta mới cảm nghe
hết cái lặng lẽ của thời chiến.
27/1
Những đọt dừa non lại đã nẩy trên những cây dừa trơ trụi của phố Khâm
Thiên. Nhưng nhiều mái nhà xô ngói vẫn chưa được lợp lại.
Chỗ nào có trẻ là chỗ đó có trò chơi. Nhiều trẻ tập lại sinh hoạt công
cộng, thứ sinh hoạt công cộng rộng rãi nhất, trong lời báo máy bay: Đồng
bào chú ý, tây bắc Hà Nội...
Tiếng báo động đã tập họp cả thành phố. Không có sinh hoạt công cộng nào
có sức tập hợp thành phố, như tiếng còi báo động, và sau đó, còi báo
yên.
Khâm Thiên chứng tỏ một sức hồi sinh của Hà Nội, cách hồi sinh của một
thành phố nghèo.
Có sức sống của những thành phố giàu và sức sống của những thành phố
nghèo. Những thành phố nghèo bao giờ cũng tự chứng tỏ nó sống với
nghĩa là nó không chết. Nó còn sinh sôi. Ở đâu đó, sự sống biểu
hiện ra ở trí tuệ. Ở đây chỉ là bản năng sinh sôi. Kể cả bản năng làm
dáng theo cách nghèo của mình. Những người thanh niên mốt nhất là những
người thanh niên nghèo.
1/2
Lại đến Khâm Thiên. Cột điện nghiêng đi, ở trên đèn vẫn sáng. Những mầm
xanh trên những hàng cây bị long gốc. Cống nuớc đã xây xong. Một
vòi nước mới bắc. Những người đi gánh nước, xếp hàng một dãy dài.
Một đài kỷ niệm mới lập. Triển lãm. Trong ảnh, thấy rõ gạch ngói còn
ngổn ngang trên đường.
Trẻ con nhìn ảnh nhận mặt người quen:
- Kìa, bà cả.
- Ối, anh Tư.
Khôi phục có một nghĩa là san dồn lại những gì chiến tranh tàn phá.
Nhưng còn những tình cảm, làm sao mà san dồn cho được.
Khâm Thiên ngày tết. Những người trong gia đình, ngồi dựa lưng vào những
bức tường gạch kê, trò chuyện. Một cái khẩu hiệu trên tường: Không có
gì quý hơn độc lập tự do (có lẽ do dân tuyên truyền trên thành phố
mới cho người đến nhét vào). Ánh đèn rực rỡ lúc này trông lại đáng sợ.
Những nền nhà gác nghiêng đi, ở nhà dưới người ta vẫn bầy biện đủ thứ
ảnh, khẩu hiệu. Đến 29 tết, tôi còn thấy người ta tay dao, tay thước,
xây tạm nhà cửa.
Cái định nghĩa về nhà cũng giống như định nghĩa về mỗi con người chúng
ta hôm nay: chắp vá, tạm bợ, chỉ cốt có một cái gì cơ bản nhất, ngoài ra
thì không có gì nữa.
Ví như con người bây giờ nghĩa là sinh vật biết ăn uống, nói
năng, biết làm theo ý định người khác. Còn nhà là một chỗ trú nắng, trú
mưa. Thế thôi. Ở giữa phố, có một đài kỷ niệm, một cái giá gỗ cao hình
cong, Nghiêm Đa Văn bảo như một cái sừng, được dựng lên.
Vợ chồng nhà Văn cãi nhau. Người ta lúc thì gọi là bia căm thù, lúc thì
gọi là đài chiến thắng. Ai đúng hay cả hai đúng?
Người đến xem để xe đạp một hàng dọc đường, như vào một cửa hiệu.
Tôi nghĩ tới cái gia đình sống bên cạnh đó, mọi người dòm hành vào, mất
hết cái riêng tư vốn có. Đây cũng là một hậu quả của vụ Khâm Thiên, chứ
sao?
|