ĐỜI SỐNG VĂN
NGHỆ Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số đặc biệt kỷ niệm 40 năm báo Văn nghệ (tháng 4-1988)
MỘT VÀI GHI NHẬN
PHẠM QUANG LONG
Khoảng dăm bảy năm
trước tôi có đọc trên tờ Văn nghệ
hai bài thơ dự thi của Nguyễn Trọng Tạo
Tản mạn thời tôi sống
và Lời
hát ru của người đứng tuổi. Bài thơ
đầu của anh lúc đó đã gây được sự chú ý của bạn đọc và nói chung khá
nhiều người đã thấy thích thú cái giọng điệu mới lạ của nó. Trong
cái không khí chung lúc bấy giờ người ta còn ngần ngại, e dè khi
phải động chạm đến một số lĩnh vực mà cho đến thời điểm bài thơ ra
mắt vẫn còn bị coi như là húy kỵ, thì tác giả
Tản mạn thời tôi sống
lại nhìn nhận nó với một thái độ khác hẳn. Song tiếc thay một thời
gian sau, trong mục điểm tình hình bài thơ của báo
Văn nghệ
tác giả đã bị "uốn nắn" ngay. Bài thơ bị chê là tản mạn và tuy không
nói thẳng ra nhưng người đọc qua giọng điệu của bài viết có thể cảm
nhận được điều này; cái tạng của cái bài thơ loại này chưa được bản
báo khuyến khích, thừa nhận. ... Bẵng đi một
thời gian khá dài, tuần báo Văn
nghệ tuy không đến mức bị độc giả
lạnh nhạt, song người ta ít hứng thú, chờ đợi một sự đổi thay, một
cải cách nào đó. Chìm đi trong dòng đời đầy biến động, sôi sục, bức
bối đòi hỏi một "cái gì đó" sẽ đến,
Văn nghệ
dường như vẫn chưa chạm vào được các mạch chính của dòng đời. Thế rồi một luồng
gió mới đã thổi vào các trang Văn
nghệ, làm cho nó sinh động hẳn lên.
Tôi còn nhớ là sau khi báo đăng Sự
thật về một ông vua lốp và
Lời khai của bị can,
"vua lốp" trong tác phẩm đã trở thành đầu đề của biết bao câu chuyện
hàng ngày, thành "dẫn chứng" cho biết bao "tài liệu" khác nữa. Rồi
sau đó là những Suy nghĩ trên
đường làng và
Cái đêm hôm ấy... đêm gì?
đã gây ra những chấn động thực sự không chỉ trong dư luận mà còn
trong suy nghĩ của nhiều người. Cùng với
Người đàn bà quỳ
(tuy tác giả không ghi tên thể loại cho
bài viết của mình) thì nhóm các bài viết ấy đã trở thành một
hiện tượng
xã hội chứ không chỉ còn thuần túy là các tác phẩm nghệ thuật nữa.
Tôi nói tới nhóm bài viết này vì hai lý do: thứ nhất, qua các bài
viết ấy chúng ta có thể thấy, phải thấy việc cần nhận thức lại nhiều
vấn đề của đời sống xã hội hiện nay đến mức nào (tiếc thay và cũng
đau xót thay, lại là những vấn đề rất cơ bản của xã hội ta). Thứ
hai, đã đến lúc cần phải nhận thức lại văn học. Bản chất vốn có của
nó không thay đổi, song điều đáng phàn nàn là chúng ta đã hiểu về nó
không đúng, thậm chí sai lầm, đã tước mất của nó thứ vũ khí kỳ diệu
nhất. Nếu văn học không còn là tiếng nói của lương tri, của lẽ phải,
không nhân danh con người, vì con người thì nó tồn tại vì mục đích
gì? Trước khi
Suy nghĩ trên đường làng
xuất hiện thì trên nhiều báo khác nhau, đặc biệt là
Nhân dân
đã đăng không ít ý kiến về tình hình sản
xuất nông nghiệp. Song, trên thực tế chưa có bài viết nào lại thu
hút được sự chú ý của độc giả như bài phóng sự này, không phải là
nội dung của nó khác quá xa với một số bài viết khác (kể cả một số
bài đã từng đăng trên báo Văn nghệ),
mà ở cái cảm hứng sự thật, ở cách trình bày bằng nghệ thuật một sự
thật đang làm đau lòng tất cả chúng ta. Chắc là khá đông chúng ta
không xa lạ với nạn cường hào mới ở nông thôn, cũng như những sai
lầm, thiếu sót của nhà nước ta trong một số chính sách với nông dân,
song đọc Cái đêm hôm ấy... đêm gì?
và Người đàn bà quỳ
vẫn thấy sửng sốt, bàng hoàng. Không phải đợi đến
lúc báo Văn nghệ
tổ chức tọa đàm về nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong việc chống tiêu
cực thì độc giả mới chú ý tới điều đó. Đúng là các báo
Tuần tin tức, Lao động, Tiền phong, Phụ
nữ, Đại đoàn kết v.v... đã có nhiều
tin và bài về các sự việc tiêu cực và vi phạm pháp luật từ nhỏ đến
lớn, song các sự vụ việc đó được người đọc tiếp nhận ở các góc độ
khác với khi họ đọc về chúng qua các trang của
Văn nghệ.
Và tác động của Văn nghệ
đến độc giả không chỉ dừng lại ở góc độ
một thông báo, một tin thuần túy, mà nó mang sức ám ảnh, lay động
sâu sắc hơn nhiều. Đó là sự khác nhau của báo chí và tác phẩm nghệ
thuật. Có thể thấy bên
cạnh ký, mảng truyện ngắn của báo
Văn nghệ cũng đã đem trình làng
nhiều tác phẩm xuất sắc. Sự tha hóa của con người, sự phi luân, thói
ích kỷ, cái xấu đủ các màu sắc đã được các cây bút quen và lạ phanh
phui, mổ xẻ, truy kích đến cùng.
Số một và số nhiều, Lời nói dối đầu tiên, Chuyện như đùa, Lại chuyện
như đùa, và đặc biệt là
Tướng về hưu
đã làm thành một mảng truyện ngắn về một xu hướng của văn xuôi hiện
nay. Trước đó một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu như
Khách ở quê ra, Bức tranh...
cũng đã gây ra nhiều xôn xao, nhiều băn khoăn, và không ít hy vọng
vào văn chương. Sẽ không phải là
quá lời nếu cho rằng nhóm truyện ngắn đã nêu ở trên là bằng chứng về
sự lăn lưng
của Văn
nghệ vào cuộc đời. Cái mới của
Tướng về hưu
trước hết không hẳn ở bố cục, ở cách viết. Tác giả của truyện ngắn
cũng không cần sử dụng bất kỳ một thứ kỹ thuật nghề nghiệp nào để
thu hút sự chú ý của người đọc. Trùm lên tất cả câu chữ là sự thật,
một sự thật thấp sát đất làm nát lòng người. Tôi không định nói rằng
cảm hứng sự thật trong sáng tác, viết về sự thật như nó vốn có, chỉ
mới bắt đầu từ các truyện ngắn đăng trên
Văn nghệ
vài năm gần đây. Song phải thừa nhận là cách nhìn nhận và viết về
hiện thực một cách tỉnh táo, nghiêm ngặt, không tránh né, vòng vèo
cũng chỉ mới trở lại trong các trang viết của một số người cầm bút.
Những chuyện đùa ra nước mắt của Mai Ngữ cũng đã là nguyên nhân cho
bao cuộc trao đổi ngoài cuộc đời. Câu chuyện thực đến nỗi một anh
bạn của tôi vốn ít chú ý đến tờ
Văn nghệ, vậy mà sau khi đọc xong
Chuyện như đùa
đã phải thốt lên: "Thánh quá, cứ viết thế này thì ai dám bảo các ông
nhà văn nhà báo chỉ có nói láo ăn tiền nữa!". Anh cho biết thêm là
bản thân anh đã "bão hòa" với các chuyện tiêu cực này hay khác trong
các báo chí rồi, nhưng đọc Tướng
về hưu hay
Chuyện như đùa
lại thấy nó lôi cuốn kỳ lạ tuy những tính cách ấy, con người ấy anh
đâu có lạ. Và khi đọc xong Cái đêm
hôm ấy... đêm gì? tôi thấy anh ngồi
thở dài rồi mắt đỏ lên. Một biểu hiện nữa
của thái độ nhập cuộc
của Văn
nghệ là mảng các bài viết ở trang
lý luận, phê bình đã khởi sắc hơn trước. Đang bớt dần đi những bài
viết mà mới chỉ ngó qua tên gọi và tác giả là đã đoán được gần đúng
nội dung là gì rồi. Lối viết khen một ít, chê một ít mà cách khen
chê vẫn cứ lập lờ đến khó chịu đang bớt dần. Người ta đã được trao
đổi khá thẳng thắn về một số vấn đề mà lâu nay đã được một số "chức
sắc" văn nghệ xếp vào loại hồ sơ đã giải quyết xong. Quá trình nhận
thức lại một số vấn đề mấu chốt của văn nghệ như quan hệ giữa văn
nghệ với chính trị, giữa phục tùng chính trị với tự do sáng tác, về
tính trường tồn của tác phẩm nghệ thuật v.v... đã được trao đổi,
tranh cãi thẳng thắn trên tinh thần cố gắng tiếp cận chân lý chứ
không phải theo kiểu nói lấy được, "cả vú lấp miệng em" như xưa. Một
thời gian khá dài nhiều người đã quên mất một trong những thuộc tính
quan trọng nhất của văn nghệ là tính dự báo, đi trước cuộc sống, mà
lại cứ lăm le biến nó thành một thứ công cụ nhằm mục đích giáo huấn,
giải thích, nói theo, "phục vụ kịp thời" cho yêu cầu này, mục tiêu
nọ. Rồi cũng do cách quản lý của ta quá lắm chuyện lạ lùng nên tuy
không có văn bản chính thức nhưng dần dần cứ nảy sinh hết áng văn
chương này đến áng văn chương khác, dây dưa hàng chục năm trời, nên
sĩ khí người cầm bút cũng vì thế mà cùn nhụt đi. Đóng góp của mảng
lý luận, phê bình đối với quá trình văn học có lẽ mới chỉ dừng lại ở
chỗ dần dần bằng tiếng nói của mình trả lại cho văn nghệ cái quyền
cao quý của nó: tiếng nói của lương tri, lẽ phải, vì con người. Song, lý luận phê bình muốn đáp ứng được yêu
cầu của quá trình xã hội và văn học trước hết phải thực sự trở thành
nơi tổ chức và hướng dẫn sáng tác. Ở ta đang thiếu những nhà phê
bình lý luận chuyên nghiệp có trình độ cao, có bản lĩnh của một
người "sống chết" với nghề, và trước hết phải có cái tâm của người
cầm bút như hơn một thế kỷ trước nhà phê bình dân chủ cách mạng Nga
vĩ đại N. Chernyshevski đã mơ ước: họ phải viết vì lợi ích chung của
một nền văn học tương lai chứ không phải vì quyền lợi riêng tư của
một cá nhân nhà văn hay nhà phê bình nào. Hy vọng rằng đội ngũ phê
bình của ta sẽ xây dựng nó thành một khoa học thực sự - khoa học về
một nền mỹ học đang vận động và phát triển. Nguồn: Văn
nghệ, Hà Nội, số đặc biệt kỷ niệm 40 năm báo Văn nghệ
(tháng 4-1988) 23-10-2021 |