ĐỜI SỐNG VĂN
NGHỆ Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 11 (tháng 11-1991); số 12 (tháng 12-1991)
VĂN HỌC: ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Để góp một tiếng nói vào đời sống văn nghệ của đất nước, ngày
27-9-1997, Ban văn xã Tạp chí Cộng sản đã tổ chức cuộc tọa
đàm Văn học: đổi mới và phát triển, với sự tham gia của một
số nhà thơ, nhà văn, một số nhà nghiên cứu lý luận, phê bình và
giảng dạy văn học thuộc các trung tâm văn học lớn ở Hà Nội, cùng đại
diện Hội đồng khoa học và các bộ Ban văn xã Tạp chí Cộng sản. Đồng chí Hà Xuân Trường, chủ
tịch Hội đồng khoa học Tạp chí Cộng sản chủ trì buổi tọa đàm. Sau đây là một số ý kiến chính
trong buổi tọa đàm đó.
Nhìn
nhận, đánh giá tình hình phát triển của văn học 16 năm qua, đặc biệt
từ Đại hội VI của Đảng, trong bối cảnh những biến chuyển quan trọng
VŨ TÚ Trong sự phát triển mạnh mẽ,
phong phú của văn học ta mấy năm gần đây tôi thấy nổi lên mấy vấn
đề:
Trước hết phải nói tới
cái được.
Rất nhiều nhà văn, qua tác phẩm của mình, góp phần nhìn lại con
người Việt Nam một cách toàn diện, những ưu điểm, nhược điểm, truyền
thống, những thiếu hụt, thậm chí cả những mặt tha hóa, xuống cấp...,
lấp đầy những lỗ hổng đề tài mà trước đây chưa có điều kiện đề cập.
Chẳng hạn như một số sáng tác ban đầu của Nguyễn Huy Thiệp là tiếng
chuông báo động về sự tha hóa của con người.
Nhìn lại một số sự kiện lịch sử: cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cải cách ruộng đất, các nhà văn cũng có cái
nhìn mạnh dạn, trung thực hơn, phản ánh chúng vào tác phẩm một cách
toàn diện, chân thực và sinh động, với tinh thần chung là nhìn lại
để rút ra những gì có ích cho cuộc sống hôm nay. Chẳng hạn:
Ông cố vấn
của Hữu Mai, Thân phận của tình
yêu của Bảo Ninh. Một số sáng tác đi sâu vào cuộc
sống đời thường, vào số phận cá nhân con người với tất cả sự phong
phú, phức tạp của nó, tạo nên tính hấp dẫn, gần gũi với người đọc.
Đó là những cái được đáng quý, đáng khuyến khích, trân trọng. Tuy nhiên, từ những xu hướng
trên, cũng đẻ ra những mặt tạm gọi là chưa được. Trước hết, đó là
cái nhìn cực đoan, phiến diện trong sáng tác. Nhìn nhận, miêu tả con
người (nhất là đối với những nhân vật đảng viên cộng sản, cán bộ
lãnh đạo) chỉ thấy mặt tồi tệ, hư hỏng, đáng xấu hổ. Nhân vật người
cộng sản chân chính trong văn học sao mà ít ỏi và mờ nhạt. Nhìn lại
các sự kiện lịch sử (chẳng hạn: cải cách ruộng đất), chỉ thấy những
sai lầm, tội ác mà không thấy những mặt khác. Cách nhìn này có cơ sở
xã hội thực tế của nó và ta không nghi ngờ gì thiện ý của đa số
người viết, nhưng rõ ràng, nó không khách quan, không khoa học và
thiếu công bằng, là kết quả của sự vội vàng, áp đặt chủ quan, và như
vậy tất yếu đẻ ra một kiểu công chức mới, sơ lược mới và chủ nghĩa
thành phần mới trong văn học. Trong sáng tác, có quan điểm
cho rằng, trước đây ta viết chỉ thiên về mặt cộng đồng, mặt công dân
của con người, thì bây giờ cần viết về số phận, thân phận cá nhân là
chủ yếu. Quan điểm này, về lý luận có cái gì đó khập khiễng, về thực
tế cũng không phù hợp. Cá nhân và cộng đồng luôn gắn bó với nhau
trong mọi thời kỳ, tuy còn tùy thuộc vào những hạn chế lịch sử khác
nhau. Hiện nay, có điều đáng lưu ý là
rất khó phân biệt giữa "làm ăn" và "làm cách mạng", giữa "đời
thường", "cá nhân" và "cộng đồng". Nó đòi hỏi các nhà văn phải có
cái nhìn thấu đáo để vừa phản ánh số phận cá nhân, vừa nói lên được
nỗ lực chung của cộng đồng. XUÂN THIỀU Từ đầu những năm 80, ta thấy
văn học bắt đầu xuất hiện những yếu tố đổi mới, tuy còn e ấp, khiêm
nhường. Nhà văn đổi mới bằng sự nhạy cảm của người nghệ sĩ trước số
phận của con người, trước vận mệnh dân tộc. Đó là các sáng tác của
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, v.v... Nhà văn
vừa viết vừa nghe ngóng, và không tránh khỏi trường hợp bị gây khó
dễ. Từ sau Đại hội VI, nhất là sau
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ, văn học có sự
đổi mới mạnh mẽ, nhất là trong văn xuôi. Nhìn chung, bên cạnh điều
này, điều nọ cần bàn luận, nền văn học ta đang chuyển dần về đúng vị
trí và chức năng mà cuộc sống hôm nay đòi hỏi ở nó.
Hai năm qua, làm việc ở Ban sáng tác Hội
Nhà văn, có điều kiện, và trách nhiệm phải đọc hàng trăm tác phẩm
văn xuôi, tôi thấy mình bị ngợp trong một bối cảnh xã hội phức tạp
và gay gắt. Khuôn mặt nông thôn Việt
Viết về chiến tranh hay nói đúng hơn là
tác động qua lại của chiến tranh với con người, các nhà văn đã có
cách nhìn trung thực, nhân bản hơn, chẳng hạn:
Ông cố vấn
của Hữu Mai, Chim én bay
của Nguyễn Trí Huân, Thân phận của
tình yêu của Bảo Ninh,
Nước mắt đỏ
của Trần Huy Quang.
Thực ra, đóng góp chủ yếu của văn học
những năm gần đây không phải là phản ánh hiện thực, mà là
sự chuyển hướng từ văn học nói về cộng
đồng sang văn học nói về số phận con người.
Trong thơ là sự chuyển hướng từ cái ta chung chung sang cái tôi cụ
thể của tác giả. Trong văn xuôi, nhân vật có đời sống riêng, thân
phận riêng, tính cách riêng. Nó không khước từ cộng đồng, nhưng độc
lập với cộng đồng hơn. Chỗ này ý kiến của tôi có khác với anh Vũ Tú
PHAN CỰ ĐỆ
Cách đây mấy năm, trong giới nghiên cứu có
một quan điểm: từ trước năm 1975 ở Việt
Tôi cũng đồng ý với anh Xuân Thiều rằng
việc chuyển từ cộng đồng sang số phận cá nhân là một bước tiến trong
văn học ta gần đây. Nhưng tôi không đồng ý với những cách đặt vấn đề
(xuất hiện cách đây 7 - 8 năm) cho rằng: trong 30 năm chiến tranh,
chúng ta áp đặt cộng đồng lên cá nhân. Tôi cho cái chữ ấy không
được. Như anh Hữu Mai viết bộ Đất
nước, tập 1, anh lấy tên là
Những người tình nguyện.
Khi đó sự hòa hợp cá nhân-cộng đồng là vấn đề có thật. Nếu cho rằng
ta đã hy sinh cá nhân, áp đặt cộng đồng lên cá nhân là không đúng.
Phải thấy rằng, trong 30 năm chiến tranh ta cũng có giải phóng cá
nhân, nhưng chủ yếu mới là giải phóng cá nhân về mặt con người công
dân thôi. Trong cá nhân còn có con người xã hội, con người tự nhiên
và nhiều mặt khác: cá tính, phong cách, tài năng... rộng rãi hơn
nhiều. Những mặt này, bây giờ văn học đang tiếp tục giải quyết. Trong lịch sử tư tưởng của ta,
có hai tư tưởng chủ đạo đi song song là tư tưởng yêu nước và tư
tưởng nhân ái. Đặt vấn đề như vậy thì vấn đề cá nhân cũng không thể
giải quyết độc lập, tách khỏi cộng đồng. HỮU MAI Về sự khủng hoảng trong văn học
ta hiện nay, tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân. Xã hội ta đã chuyển
sang cơ chế thị trường, người sản xuất không thể tách rời người tiêu
thụ, nhà văn phải gắn với người đọc. Thị hiếu người đọc những năm
gần đây thay đổi rất nhanh. Trước kia, người ta thích sách dịch
phương Tây, rồi thích loại sách "ba tình"..., rồi sách dịch của Tàu,
sách in ở miền Nam trước giải phóng, gần đây là tiểu thuyết của
Quỳnh Dao, hoặc viết theo kiểu Quỳnh Dao. Còn bây giờ thì... chán
tất! Những tác phẩm cổ điển, những tác phẩm được giải lớn: Nobel,
Gông-cua, Pu-lit-zơ... không có người mua. Tình hình này rất đáng lo
ngại. Nó đã tức thời tác động xấu tới sáng tác văn học. Năm 1990,
tiểu thuyết được mùa lớn. Năm nay, gần cuối năm rồi, rõ ràng có dấu
hiệu mất mùa! Trong cuộc gặp đồng chí Tổng Bí thư vừa rồi, tôi đã
phát biểu tình trạng khủng hoảng trong văn học đã lên tới đỉnh điểm,
cần có những giải pháp tình thế. Khủng hoảng do cơ chế thị
trường tác động, theo tôi, chưa quan trọng bằng khủng hoảng trong
cách đánh giá, trong việc xác định những tiêu chí mới về giá trị đạo
đức, tinh thần. Trước đây, đề cao cộng đồng, bây giờ chú trọng cá
nhân, nhưng quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng ngày nay ra sao? Chưa
rõ! Đọc những văn kiện Đại hội VII,
tôi thấy những đoạn viết về văn học nghệ thuật thoáng, rộng hơn
trước, nhưng còn cần được cụ thể hóa. Có những giá trị thay đổi. Thế
nào là thiện - ác, tốt - xấu, giả - thật ngày nay không thể đơn
giản. Khá nhiều vấn đề quan trọng mà nhà văn chưa thể lý giải cho
chính mình!
Chẳng hạn, vấn đề hiện thực chiến tranh
trong cuốn Thân phận của tình yêu
của Bảo Ninh, đã có những ý kiến khác nhau trong Ban chung khảo. Có
người đánh giá đây là hiện thực dữ dội của chiến tranh, lần đầu được
văn học đề cập tới. Nhưng cũng có người nói đây không phải là hiện
thực lịch sử, vì với tâm trạng những người lính như vậy thì không
thể có chiến thắng; đây là hiện thực được cảm nhận lại, của một
người lính sau nhiều năm chiến tranh, gắn với tâm trạng hôm nay. NGUYỄN KIÊN Chủ trương tự do sáng tác của
Đảng ta là đúng đắn, hợp với quy luật của sáng tác nghệ thuật, là
điều kiện bảo đảm cho văn học nghệ thuật phát triển. Với điều kiện
bảo đảm như thế, văn học gần đây đã có được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận.
Trước hết đó là sự mở rộng về đề tài, nói
đủ thứ chuyện trên đời, nhưng chủ yếu tập trung vào con người, với
tính toàn vẹn của nó. Cách viết truyền thống vẫn tiếp tục và thành
công ở mức độ khác nhau (Chim én
bay của Nguyễn Trí Huân,
Ông cố vấn
của Hữu Mai).
Đáng chú ý hơn, là sự xuất hiện ngày càng
nhiều những sáng tác miêu tả cái đời sống ẩn chứa bên trong của con
người, tập trung vào số phận cá nhân con người, lịch sử được nhận
biết qua số phận các cá nhân. Bến
không chồng của Dương Hướng là một
ví dụ. Đây là cuốn tiểu thuyết miêu tả số phận cá nhân, mặc dù câu
chuyện diễn ra trong khoảng vài chục năm đầy biến động nhưng nó
không phản ánh hiện thực theo kiểu cũ. Cái được tiếp theo của văn
chương, theo tôi, là sự đa dạng về phong cách, hình thức, về cách
nhìn, không chỉ trong văn xuôi mà cả trong thơ. Trong sự đa dạng đó,
không có nghĩa là cái nào cũng hay, cũng tốt, nhưng ta cần ghi nhận
điều này, bởi tác phẩm văn học là cái đơn nhất, không nhắc lại hay
trùng lặp. Cái được thứ ba là cá tính sáng
tạo của từng nhà văn được thể hiện rõ trong tác phẩm. Sáng tác của
các nhà văn (không chỉ ở lớp trẻ) thể hiện rõ sự cố gắng bộc lộ cá
tính riêng của mình, chủ thể sáng tác được tự ý thức và coi trọng.
Xét riêng về mặt này thì phải công nhận Nguyễn Huy Thiệp là một tác
giả có dấu ấn riêng rất rõ. Rồi Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Y Ban
v.v... Đó là những cái được. Còn cái
chưa được? Theo tôi, có hai điểm đáng chú ý. Rải rác đây đó trong
một số tác phẩm hay một đôi chỗ trong một tác phẩm có cái nhìn chủ
quan, phiến diện, gượng ép. Nhà văn cố tình gò nhân vật vào tác phẩm
theo ý định chủ quan của mình một cách lộ liễu, nên rơi vào một kiểu
công thức, sơ lược mới (như anh Vũ Tú Nam đã nói). Thậm chí còn có
cả thái độ thiếu vô tư, nóng nảy, vội vàng, đôi khi cay cú, trong
một số tác phẩm. Đồng thời, do tác động của cơ chế thị trường, nổi
lên tình trạng viết dối, viết ẩu, chạy theo đồng tiền trong sáng
tác. Nhà văn cũng cần tiền như bất cứ ai và viết để kiếm tiền, điều
đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vứt bỏ mọi thiên chức nghề nghiệp để
thuần túy vì đồng tiền, thì rất đáng phê phán. TRẦN ĐÌNH SỬ
Tôi xin mạnh dạn đưa ra một phác thảo suy
nghĩ của tôi về quy luật phát triển của văn học ta trước và sau năm
1975. Đây mới chỉ là phác thảo để chúng ta cùng bàn, có gì mong các
đồng chí cùng tranh luận. Tôi cho rằng từ sau năm 1975, chúng ta đã
có bước chuyển từ văn học cách
mạng sang
văn học.
Nếu như trước đây, nền văn học cách mạng của chúng ta tập trung
trong một hệ thống chặt chẽ, một mối quan hệ tư tưởng thống nhất,
thì sau năm 1975 văn học cách mạng chỉ còn là một bộ phận của nền
văn học. Chẳng hạn cuốn Đường về
Sài Gòn của Nam Hà, tôi cho vẫn là
văn học cách mạng, nó biểu dương, khẳng định sức mạnh của dân tộc;
nhưng cuốn Thân phận của tình yêu
của Bảo Ninh thì tôi cho không phải là văn học cách mạng mà chỉ là
một tác phẩm văn học. Tức là, chúng ta đã có bước chuyển về loại
hình văn học, mô hình văn học. Trước đây văn học cách mạng thuần
nhất không chấp nhận các loại văn khác. Còn bây giờ, chúng ta có một
nền văn học nhiều loại, nhiều tầng; giải trí, võ hiệp, kỳ tình... và
cả văn học cách mạng. Trong bản thân một tác phẩm văn học cũng có
nhiều tầng, lớp. Sự chuyển biến này rất lớn và rất quan trọng. Từ
một nền văn học cách mạng với những nhiệm vụ tư tưởng rõ ràng đã
chuyển thành một nền văn học với chức năng
thỏa mãn
tất cả mọi nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người. Tôi cho
rằng cần phải nhận thức một cách đầy đủ và triệt để như vậy thì mới
nghĩ được cách lãnh đạo, quản lý tương ứng và phù hợp. Tức là, đã có
một bước phát triển về ý thức văn học trong xã hội. Chẳng hạn, cuốn
Mảnh đất lắm người nhiều ma,
tôi cho rằng đó là một tác phẩm lành mạnh có giá trị, nhưng không
phải là văn học cách mạng như cách ta hiểu lâu nay. Tôi xin nói thêm về vấn đề văn
học sử thi. Văn học cách mạng trước đây là văn học sử thi. Tôi dùng
chữ "sử thi" với tất cả tính đúng đắn, khoa học và tốt đẹp của nó.
Nó là văn học viết về cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân dân, với
nhiều thành tựu lớn. Sau năm 1975, nó chuyển dần sang thế sự, đời
tư, giải quyết những vấn đề, những mối quan hệ trong nội bộ dân tộc.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nghiên cứu để thấy rõ trong sự phát
triển đó, ở từng giai đoạn, nó rộ lên từng loại sáng tác. Viết về
chiến tranh, ta hãy so sánh các trường ca của Hữu Thỉnh, Thanh Thảo
sau năm 1975 với tác phẩm của Bảo Ninh hiện nay: từ khẳng định, ca
ngợi chiến thắng đến cảnh tỉnh, ngăn ngừa chiến tranh. Viết về các
vấn đề khác cũng vậy (chẳng hạn cải cách ruộng đất), đó là quy luật
phát triển, ta không việc gì phải lo ngại. PHẠM TIẾN DUẬT
Tôi rất tâm đắc với vấn đề xã hội học văn
học mà Tạp chí Cộng sản
đưa ra thảo luận. Đây là vấn đề trung tâm
của các cuộc tranh luận văn học lâu nay. Chúng ta chấp nhận một nền
kinh tế thị trường có nghĩa là chấp nhận sự trở lại, sự tái xuất
hiện của một loạt đề tài trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xưa:
người giàu và người nghèo, ông chủ - đầy tớ, quyền lực, tình - tiền,
cao hơn nữa là cơ may của số phận cá nhân trong cộng đồng. Đó là
những tồn tại khách quan mà chúng ta, trước hết là các nhà văn, phải
chấp nhận và giải quyết.
Tôi thấy cần trao đổi với anh Trần Đình
Sử, không thể phân chia văn học trước đây là
văn học cách mạng,
còn bây giờ là văn học.
Tôi nhấn mạnh: không thể được.
Văn học thời kỳ chiến tranh cũng như văn học viết về đời thường,
tình yêu, số phận cá nhân như bây giờ, tất cả đều chung mục đích với
cách mạng: cuộc sống tốt đẹp cho con người. Các nhà lý luận cứ hay
phân định rạch ròi, trong khi vấn đề văn học đa dạng sâu sắc và toàn
diện hơn nhiều. VŨ QUẦN PHƯƠNG Sự đổi mới trong văn xuôi thì
đã rõ, và dễ nhận thấy. Còn trong thơ thì khó phát hiện hơn, bởi thơ
là chắt lọc, khái quát và biểu tượng. Nếu ta đọc thơ theo cách đọc
văn xuôi để tìm cái mới thì rất khó, nhưng nếu chịu khó đọc kỹ và
suy ngẫm thì sẽ thấy sự đổi mới trong thơ có phần còn mạnh mẽ hơn
trong văn xuôi. Về quan niệm đổi mới trong văn
học vừa qua, tôi cho rằng, trước hết và chủ yếu là đổi mới trong
chính sách quản lý và đường lối lãnh đạo văn nghệ, tác động đến sáng
tác, tạo nên những cái mới trong sáng tác vừa qua. Còn bản thân sáng
tác không có sự đột biến, rành rõ, không phải trước cũ rích, còn giờ
thì mới tinh, mà vẫn là một quá trình tiệm tiến theo quy luật tự
thân của nó. Vì thế, quan niệm trước đổi mới ta không có văn chương,
còn bây giờ mới là văn chương, là không thỏa đáng, không khoa học.
Bản năng trí tuệ và bản năng sáng tạo thôi thúc người nghệ sĩ trong
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng hướng tới chân lý và cái đẹp đích thực. Về tính phiến diện của văn học
chiến tranh, tôi cho rằng phải nhìn thấy hết sự tự nguyện của nhà
văn vì mục đích chung của cả dân tộc. Đó là tính nhân đạo, là đạo
đức lớn nhất vốn có trong chiến tranh. Cái sai là có người cứ nghĩ
rằng văn chương cứ phải phiến diện như thế mới là cách mạng, là văn
chương đích thực, mà không thấy hết tính bất đắc dĩ và sự bắt buộc
của hoàn cảnh. Cũng như vậy, mối quan hệ hòa
hợp giữa cá nhân và cộng đồng trong chiến tranh là có thật, và người
ta coi đó là tự nhiên. Chẳng hạn, ở nhà thơ Tố Hữu, những vấn đề lớn
của dân tộc, của thời đại, cũng là vấn đề riêng tư của anh, không có
sự chia cắt. Tuy nhiên, đến một giai đoạn, mối quan hệ này sẽ có sự
so le, bởi cái ta gọi là cộng đồng không còn hoàn toàn phù hợp với
cái cá nhân nữa; nói cách khác: cái cộng đồng cũng đã khác đi rất
nhiều trong khi ta vẫn quan niệm nó theo mẫu cũ. Vậy, nhiệm vụ của
chúng ta là phải tìm ra đặc điểm mới của cộng đồng cho phù hợp, đại
diện được cho cá nhân ngày hôm nay, chứ không thể xóa bỏ mối quan hệ
giữa chúng. LÊ QUANG TRANG
Tôi xin trao đổi với ý kiến của anh Trần
Đình Sử cho rằng, văn học từ 1945 - 1975 là
văn học cách mạng,
còn sau 1975 là văn học.
Đây là một vấn đề phức tạp, người nêu ra cũng chưa kiến giải đầy đủ,
nên chưa có đầy đủ dữ kiện để thảo luận. Song theo tôi, đây là một ý
kiến không chính xác, còn nhiều sơ hở trong khái quát. Sự phân loại
này căn cứ vào tiêu chí cơ bản nào cũng chưa được xác lập rõ. Thực
ra, từ cách mạng
(révolution) không nên thu hẹp trong nghĩa phá bỏ, thay đổi mà còn
bao hàm nghĩa tiến bộ, tiến hóa (évolution). Tính cách mạng còn phải
tìm hiểu ở chỗ đứng của nhà văn. Nó phân ranh giới giữa những nhà
văn chúng ta với những kẻ công kích, chống phá chúng ta khi cùng
viết về đề tài phê phán chế độ, sự nghiệp cách mạng (qua những sai
lầm và khuyết điểm). PHẠM XUÂN NGUYÊN Trước hết, tôi thấy cần khẳng
định rằng, công cuộc đổi mới từ Đại hội VI của Đảng là một cơ may
cho văn học, để nó không bị kìm hãm lâu hơn nữa mà được trở lại với
dòng chảy bình thường của nó. Trước năm 1975, do hoàn cảnh lịch sử
khách quan và những nguyên nhân chủ quan, trong đó có cả phần tự
nguyện và không tự nguyện của nhà văn, mà văn học ta phát triển
không bình thường. Tôi nói không bình thường ở đây là để miêu tả
tình hình, chứ không có ý đánh giá về giá trị. Sau năm 1975, văn học đã có
những chuyển động tự thân (cả trong sáng tác và lý luận phê bình)
nhằm thoát ra khỏi cái cũ, nhưng nếu không có sự tác động từ ngoài
vào là công cuộc đổi mới, thì không thể có một bước phát triển văn
học như bây giờ. Văn học hiện nay như là một sự phát triển tiếp nối
văn học giai đoạn 1930 - 1945 với tất cả sự phong phú, phức tạp bề
bộn của nó. Và đó là sự phát triển bình thường, hợp quy luật của văn
học. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng văn học bây giờ đang có sự trở
lại của những vấn đề, đề tài của thời Tự lực văn đoàn. Đúng vậy, đó
là sự trở lại, sự bù đắp những thiếu hụt do 30 năm chiến tranh, được
các nhà văn thực hiện một cách gấp gáp, với tất cả tinh thần và
nhiệt huyết công dân trong 5 năm qua, tạo nên một sự phát triển bùng
nổ trong văn học. Đến thời điểm này, khi những thiếu hụt ban đầu đã
phần nào được bù đắp, thỏa mãn (hiện thực tàn khốc, mất mát trong
chiến tranh, hiện thực "trái khoáy" của cải cách ruộng đất v.v...),
văn học đang có dấu hiệu chững lại, các nhà văn đang đứng trước
những đòi hỏi cao hơn, những thách thức quyết liệt hơn: văn học sẽ
phát triển tiếp như thế nào? Cần có những tìm tòi, khai phá để văn
học bước nhanh từ mô tả, kể lể hiện thực sang suy ngẫm, khái quát
hiện thực. Về mặt này cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh là một đóng góp
cùng các sáng tác của Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Nguyễn Trí
Huân, làm thành một bức tranh toàn cảnh sâu sắc về cuộc chiến tranh
của dân tộc. NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG Đến đầu những năm 80, văn học
ta vẫn thiếu một khí ấm nóng, sôi động, bởi nhà văn cứ rón rén đi
bên lề cuộc sống. Vậy mà mới chỉ mấy năm sau Đại hội VI, đời sống
văn học như náo động hẳn lên. Thực trạng đời sống được các nhà văn
mổ xẻ, phanh phui, chiêm nghiệm một cách sát sạt và quyết liệt với
những tác phẩm có sức gợi, sức đánh động khiến người đọc phải nhìn
tới nhìn lui mà suy nghĩ, dằn vặt cùng nhà văn. Tất nhiên, trong làn
sóng xô bồ của xã hội, đây đó có sáng tác cực đoan, máy móc, có sự
viết dối, viết ẩu, chạy theo đồng tiền. Theo tôi, đó là điều bình
thường. Cơ bản là cỗ xe đang chạy đúng hướng, văn học đang tiến đến
những giá trị đích thực, và chúng ta hoàn toàn có cơ sở để lạc quan. Tôi muốn nói thêm về hình tượng
người cộng sản, người anh hùng trong văn học ta hôm nay. Đã có thời
các nhà văn đau đáu xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng
thành những điển hình sáng chói, có sức động viên và giáo dục người
đọc. Giờ đây, có ý kiến cho rằng trong 10 năm qua, họ đã bị đánh bật
ra khỏi những trang sách. Thay vào đó là những nhân vật chẳng có
danh giá gì, tầm thường, thất thểu; nếu là lãnh đạo thì tha hóa biến
chất, nhem nhuốc, rác rưởi. Đấy cũng là một thực trạng xã hội và
chúng ta có lý do để giải thích. Nhưng cũng có cái lý ngược lại là:
dù thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời vẫn luôn luôn cần những người
anh hùng và phải có những anh hùng. Vậy trong hình tượng người cộng
sản chân chính bây giờ ra sao? Cần phải xây dựng thế nào cho đúng
nhất, đẹp nhất, mà lại có sức lay động và cuốn hút người đọc. Đấy,
quả là điều mà tất cả những người sáng tác và lý luận phê bình cần
bàn, và không thể nói thấu đáo trong vài phút ở đây. NGÔ VĨNH BÌNH Tôi rất tâm đắc với ý kiến anh
Nguyễn Khắc Trường về vấn đề nhân vật người cộng sản, nhân vật anh
hùng hôm nay trong văn học. Trong chiến tranh giải phóng, chúng ta
cần có anh hùng và "ra ngõ gặp anh hùng", thì trong xây dựng hòa
bình, càng cần nhiều anh hùng hơn. Một nhà tư tưởng đổi mới, cải
cách, một nhà khoa học, một nhà kinh doanh, một nhà ngoại giao tài
năng... sao lại không phải là anh hùng? Sao họ lại không có chỗ đứng
trong các trang sách tương lai? Tôi tin chắc rằng, những nhân vật
"khật khưỡng", "dở ông dở thằng" trong văn học sớm muộn rồi cũng sẽ
thưa đi, nhường chỗ cho những nhân vật anh hùng mới, những nhân vật
của thời đại. KHUẤT QUANG THỤY
Có thể nói, sau Đại hội VI của Đảng, văn
học nước ta đã có được một cơ hội, và đã tận dụng được cơ hội đó để
phát triển. Đã có sự thay đổi về chất trong tư duy sáng tạo của nhà
văn, mà cốt lõi là sự tiếp cận với bản chất của đời sống xã hội và
con người Việt Nam. Sự trung thực trong sáng tạo đã khiến nhà văn và
văn học củng cố được niềm tin cho bạn đọc. Cần phải khuyến khích
cách nhìn mới mẻ, lối tư duy nghệ thuật đa dạng, và phương pháp mổ
xẻ các hiện tượng tâm lý xã hội một cách thẳng thắn, không khoan
nhượng. Nhà văn có khả năng làm cho bạn đọc ngạc nhiên và tự hào khi
phát hiện ra những nét đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam, thì tại
sao lại không có khả năng làm cho bạn đọc ngạc nhiên, đau xót và xấu
hổ khi phát hiện ra những hạn chế, thậm chí những tội lỗi và sự thấp
hèn còn tồn tại trong đời sống xã hội và tâm hồn con người? Chẳng
hạn sự xuất hiện của tiểu thuyết
Sóng lừng của Triệu Xuân (tuy còn
rất nhiều điều cần bàn), nhưng tiếng là tiếng chuông báo động về
nguy cơ của tội ác và bất công trong xã hội. Về mô hình phân chia văn học
của anh Trần Đình Sử, theo tôi cần giải thích cặn kẽ, không sẽ rất
dễ gây hiểu lầm, ít nhất là ở cái vỏ ngôn ngữ của nó: văn học trước
đây không phải là văn học, còn văn học hiện nay lại ít tính cách
mạng. Nếu hiểu cách mạng là sự tiến hóa, phát triển, thì văn học
hiện nay còn nhiều tính cách mạng hơn.
PHAN CỰ ĐỆ Tôi xin nêu lên 2 vấn đề: Trong hội nghị hợp tác và phát
triển văn hóa ba châu: Á, Phi, Mỹ Latinh do SIDA tổ chức ở Thụy Điển
mà tôi vừa dự, có đặt vấn đề thảo luận: hiện nay, nhà nước hay thị
trường, tư nhân hay cộng đồng, chịu trách nhiệm về văn hóa? Đây là
vấn đề rất thời sự, nhất là đối với các nước đang phát triển. Nền
văn học nước ta là một nền văn học có lãnh đạo, nhưng cũng phải thấy
hết sức ép ghê gớm của thị trường, nhất là đối với các nhà xuất bản,
khiến họ phải chạy theo loại sách rẻ tiền nhưng bán chạy (các loại
tiểu thuyết tình dục và bạo lực dịch của phương Tây), mà bỏ rơi
những sáng tác có giá trị nhưng khó bán, hay không bán được. Như
vậy, nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư, tài trợ. Vấn đề mở rộng cửa, hiện đại
hóa nền văn học dân tộc (cả văn hóa), là hết sức đúng đắn và cần
thiết, nhưng định hướng phải rõ. Đường lối chung của ta về vấn đề
này rất đúng, nhưng cơ chế tổ chức còn quá kém. Ta gần như đang thả
nổi những cơ quan có chức năng định hướng, buộc họ phải làm trái
chức năng để sống. Vậy nếu không có sự đầu tư thích đáng, thì nói
định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ là lý thuyết thôi. HỮU MAI Định hướng lớn thì đã có, nhưng
cái cụ thể thì chưa rõ. Cũng như các lĩnh vực khác của đời sống, tự
do, dân chủ trong văn hóa và văn học cần được thể chế hóa thành luật
pháp. Nếu chưa có luật pháp thì có khi người vượt khỏi ranh giới sẽ
không hề hấn gì, mà người đi đúng đường cũng có thể bị nguy hiểm.
Đây là vấn đề khó và phức tạp, cần tới rất nhiều kiến thức và thời
gian. Trên thế giới, nước nào cũng đề ra việc chống văn hóa đồi
trụy, nhưng cho tới nay các nhà luật học vẫn chưa thống nhất được
định nghĩa thế nào là một tác phẩm dâm ô! NGUYỄN KIÊN Từ cái được và chưa được của
văn học, đặt ra mấy vấn đề.
Vấn đề
cái nhìn trong sáng tác: chúng ta
từ bỏ cái nhìn chủ quan, cứng nhắc để hướng tới cái nhìn khách quan
đúng đắn. Đó là một quá trình không đơn giản, đòi hỏi nhà văn phải
sống, phải suy ngẫm, chuyển động, thậm chí vật vã, đau đớn (như
trường hợp anh Nguyễn Minh Châu). Vấn đề này, Đảng cần biết để thấu
hiểu các nhà văn, nhưng cơ bản phải phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân của
từng người viết. Vấn đề thứ hai là sự tác động
của cơ chế thị trường và thách thức của cuộc sống hiện đại. Thị
trường sách hiện đang diễn biến gần như hoàn toàn tự phát. Sự điều
tiết của cơ quan quản lý nhà nước rất lúng túng hoặc rất kém tác
dụng trong cái mớ bòng bong đó. Văn học hiện đang đứng trước sự
thách thức của nhịp sống hiện đại và sự chen lấn của các phương tiện
nghe nhìn, khiến ảnh hưởng của nó bị giảm đáng kể. Vậy đề nghị giới nghiên cứu lý
luận phát hiện cho ra cái đặc trưng, đặc thù, cái thế mạnh không thể
thay thế của văn học để nó phát huy, khẳng định chỗ đứng trong đời
sống tinh thần. Phải chăng, văn học nên đi sâu vào đời sống bên
trong, sự tự tìm tòi, tự ý thức của con người? PHƯƠNG LỰU Chúng ta thảo luận đây với
thiện ý là góp phần tác động tích cực đến tình hình văn học trước
mắt. Có thể và phải nỗ lực chủ quan để làm điều đó. Nhưng làm được
đến đâu, cũng cần phải thấy những giới hạn khách quan của tình hình.
Trước hết về mặt sáng tác, hiển nhiên có vấn đề bản lĩnh và trách
nhiệm của nhà văn, nhưng họ không thể nào thoát ly hoàn toàn cái tâm
trạng đang đối ứng với hiện tình. Viết cái đã qua, nhưng thật ra là
đang viết cái hôm nay trên một ý nghĩa nào đó. Cũng là một công cuộc
chống Mỹ đấy thôi, nhưng giá như sau năm 1975, chẳng bao lâu nhà nào
cũng có tivi, tủ lạnh, thì họ sẽ viết khác. Ngược lại, nếu không may
mà cái quái thai "giá, lương, tiền" kéo dài đến tận bây giờ, thì
người ta lại viết về thời chống Mỹ "gớm ghiếc" hơn nhiều. Cũng không
phải là người ta tùy tiện "tô hồng lên" hoặc "bôi đen ra" hết cả
đâu. Đã đành trong thời chống Mỹ âm điệu chủ đạo là anh hùng, lạc
quan, v.v... Nhưng đâu phải chỉ có thế, những hiện tượng "chạy dài,
trốn tránh, hèn nhát, đầu thú, phản bội" không ít, nghĩa là có chất
liệu để đến hôm nay người ta nhấm nháp cái tâm trạng chán ngán với
hiện tình. Chỉ có thể chiến thắng tâm trạng này khi nào hiện tình
được thay đổi theo chiều hướng thật sự tốt đẹp. Về mặt hình thức, tức là vấn đề
tiếp nhận của công chúng văn học, cũng phải thấy những giới hạn
khách quan của nó. Cơ chế thị trường là như vậy. Ở các nước tư bản,
chắc là không thiếu "tự do sáng tác", nhưng nhiều "thứ thiệt" cũng
chỉ đành in ra với số lượng tượng trưng mà thôi... Cho nên, có lẽ
chúng ta đang đứng ở thời điểm buộc phải tạm dùng "cái ít xấu" để
chống lại "cái xấu hơn" mà thôi. Cái thật sự tốt đẹp còn chưa
nhiều... Tôi muốn vạch ra đôi nét của cái giới hạn khách quan như
vậy, để sự "nỗ lực chủ quan" của ta khỏi rơi vào một kiểu duy ý chí
khác. TRẦN ĐÌNH SỬ Tự do sáng tác trong mỗi thời
kỳ nói chung là khác nhau. Hiện nay, chủ đề, đề tài, phương pháp...
đều do nhà văn lựa chọn mà không ai có thể áp đặt. Như vậy, trách
nhiệm nhà văn cũng sẽ lớn hơn rất nhiều. Phải có sự lựa chọn, tranh
luận. Phải đặt lại vấn đề phát triển phê bình văn học. Trước đây,
phê bình nghiêng về chỉ ra đúng - sai về mặt quan điểm, lập trường,
là công cụ của tuyên truyền, thì giờ đây phê bình cần chỉ ra cái
thật, cái hay, cái đẹp, là người bạn thật sự tâm đắc của nhà văn.
Đây đang là mặt yếu nhất của văn học hiện nay. PHẠM TIẾN DUẬT
Trong bối cảnh xã hội, đất nước và thế
giới hôm nay, hơn bao giờ hết, nhà văn phải suy nghĩ sâu sắc về vấn
đề thiện - ác.
Cái thiện - ác
của hôm nay khác rất nhiều thiện -
ác của trước đây. Trước đây,
thiện - ác
rất rạch ròi, ra trận là thiện, đào ngũ là ác; chúng ta là thiện, kẻ
thù là ác; còn bây giờ, những chuẩn mực xưa không còn nữa, mọi thứ
lẫn lộn, rất khó phân biệt, đòi hỏi nhà văn phải đào sâu suy ngẫm.
Là nhà văn chân chính, không được trốn chạy những câu hỏi nóng bỏng
của độc giả: "Chúng tôi đang đứng ở đâu đây? Chúng tôi cần phải sống
với nhau như thế nào?" VŨ QUẦN PHƯƠNG Trong văn học ta đang nổi lên
mấy vấn đề mà tôi tạm gọi là "những vết xe đổ". - Một số người phản đối văn
nghệ phục vụ chính trị một cách máy móc, thì bây giờ lại đang làm
chính trị trong văn học một cách lộ liễu; kêu gọi dân chủ, tự to
tranh luận, nhưng lại mạt sát những ai khác mình.
- Sự ngụy biện giữa "phản ánh hiện thực"
và "suy ngẫm về hiện thực" để cho ra một thứ hiện thực trái hẳn với
hiện thực cuộc sống. Thật ra văn chương bao giờ chả là suy ngẫm hiện
thực. Nhưng muốn suy ngẫm đúng, phải dựa trên một hiện thực như nó
vốn có. Mọi mưu toan bóp méo hiện thực dù với động cơ nào, cũng đưa
văn chương vào giả tạo. Trước đây đã phê phán một thứ
hiện thực phải đạo
(tôi xin dùng cái chữ rất xác đáng của anh
Hoàng Ngọc Hiến) sao nay lại bênh vực một
hiện thực phải đạo
khác? - Cuối cùng do sáng tác là rất
cần thiết và quý lắm, nhưng cũng vì thế mà nhà văn càng phải nêu cao
lương tâm và trách nhiệm, không vì tự do mà viết ẩu, cẩu thả và
tuyên truyền ngu dân. LÊ QUANG TRUNG Sự lãnh đạo của Đảng đối với
văn nghệ ngoài việc tuân theo những nguyên tắc chung của công tác
lãnh đạo, cần tiến hành theo các phương thức lớn sau đây: - Phương thức tác động chung,
đối tượng là cả nền văn học bao gồm định hướng, chính sách thực hiện
mục tiêu và tổ chức để phát huy tiềm năng sáng tạo. - Tác động cá biệt, khuyến
khích sự độc đáo, trân trọng tài năng, khuyến khích tự do sáng tạo
và đề cao trách nhiệm. Đối tượng là từng văn nghệ sĩ, loại hình,
nhóm công việc. - Tìm đến một cơ chế đánh giá
chính xác. Đây là khâu cực kỳ quan trọng. Một trong những nguyên
nhân của sự lộn xộn gần đây là do vấn đề đánh giá. Cơ chế này cần
một hệ thống bao gồm: hệ thống biên tập, xuất bản (cần tiêu chuẩn
hóa, chuyên môn hóa), hệ thống kiểm duyệt (ta chưa có nhưng nên
thành lập); hội đồng nghệ thuật (thành lập theo tinh thần Nghị quyết
05 của Bộ Chính trị và chỉ chị 61 của Ban Bí thư (khóa VI); hệ thống
lý luận phê bình chuyên ngành và hệ thống tìm hiểu dư luận, thị hiếu
công chúng một cách khoa học. Muốn đánh giá chính xác, cần có
một cơ sở lý luận phê bình khoa học. Người lãnh đạo và công chúng,
qua giới lý luận phê bình, cũng có thể kiểm nghiệm và thấy sâu sắc
hơn thực chất của tác phẩm. Ý kiến anh Trần Đình Sử cho phê bình
trước đây chỉ đi tìm đúng - sai, theo tôi là cực đoan. Đã phê bình,
ai cũng nghĩ là tìm hay - dở, đẹp - xấu, nhưng sự non yếu bất cập
của nó trước tiên là ở khả năng cảm thụ, phương pháp tiếp cận, nghệ
thuật trình bày của người phê bình, chứ không thể đổ lỗi cho sự chi
phối của chính trị, tuyên truyền. PHẠM XUÂN NGUYÊN Để văn học tiếp tục phát triển,
về phía nhà văn, tôi cho rằng cái thiếu nhất (như ý kiến anh Nguyễn
Minh Châu lúc còn sống) là căn bản tư tưởng, căn bản triết học để có
thể tạo nên những tác phẩm có sức khái quát cao. Về phía lãnh đạo, cái mà người
viết mong muốn là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận (những điều kiện
vật chất thì tất nhiên là cần rồi). Ở trên tôi có nói đổi mới là cơ
may cho văn học. Cụ thể hơn: cơ may đó chủ yếu là cho những người
viết bắt đầu cầm bút từ hôm nay có tự do nhiều hơn các thế hệ cầm
bút trước đây. Cần tạo nên không khí tranh luận, trao đổi thẳng
thắn, công khai, dân chủ, trên cơ sở thông tin đầy đủ. Cần công khai
mọi thông tin, tránh những tin đồn thất thiệt hay phương pháp "quy
chụp", dễ tạo nên những "giá trị giả" và những "rắc rối thật" cho
một số tác phẩm. NGÔ VĨNH BÌNH Tôi muốn trình bày một giải
pháp đầu tư mà hiện nay quân đội đang làm đối với 50 tác giả. Không
áp đặt, không đặt hàng cụ thể, chỉ dựa trên cơ sở tự nguyện viết,
viết về cuộc chiến tranh 30 năm đằng đẵng của chúng ta. Đây là một
giải pháp đối với văn học hiện nay, một sự đầu tư không nhằm vào
hiệu quả trước mắt mà là lâu dài. Đó là một tầm nhìn xa rộng. Nó
giải quyết được nhiều vấn đề cơ bản, thiết thân đối với nền văn học,
nhất là đối với mảng sách đang gặp khó khăn: sách viết về chiến
tranh. Từ đó tôi nghĩ cần sắp xếp lại
đội hình các nhà xuất bản, phân định từng "sân riêng" với những chức
năng rõ ràng, và có hướng đầu tư cụ thể của nhà nước. KHUẤT QUANG THỤY Hiện nay đang có nguy cơ hình
thành nền kinh tế ngầm trong xuất bản, tác động rất xấu đến nhiều
thế hệ mai sau. Giải quyết vấn đề này, trước hết là trách nhiệm của
lãnh đạo với chức năng quản lý, điều tiết của mình. HOÀNG NGỌC HIẾN
Về sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ,
tôi rất tâm đắc với ý kiến của G. Marcov (nguyên Tổng thư ký Hội Nhà
văn Liên Xô) gần đây trên báo Văn
nghệ: "phải chịu đựng cá tính của
người khác". Chữ chịu đựng
ở đây rất giỏi và rất xác đáng. Đảng, theo tôi, không phải là cái gì
chung chung mà là những con người cụ thể, làm những công việc cụ thể
(lãnh đạo tư tưởng, tổng biên tập, phê bình, giảng dạy v.v...).
Trong các mối quan hệ công tác hàng ngày, cần biết chịu đựng cá tính
người khác, bởi văn nghệ mà không có cá tính làm sao thành văn nghệ
được! Cá tính
không chỉ là văn phong, phong cách, tính tình, mà còn là quan niệm,
ý kiến riêng của mỗi người. Thực hiện điều này không dễ, nhưng đây
là bước phát triển tất yếu của xã hội, sự phát triển của mỹ học và
đạo đức. Như vậy có nghĩa là cần có
không khí đối thoại, trao đổi tôn trọng ý kiến của nhau. Không thể
dùng đa số để giải quyết vấn đề, đặc biệt trong lĩnh vực này.
Trong nhận thức, luôn luôn có hai hướng,
tôi cho rằng gọi là tả
và hữu
thì đúng hơn là
đổi mới
và bảo thủ.
Trách nhiệm của Đảng là tạo ra và duy trì sự đối thoại, không khí
đối thoại giữa tả và hữu (đối đầu chỉ dẫn đến tàn phá), để tạo nên
sự phát triển. Không chỉ trong văn học, mà trong nhiều lĩnh vực
khác. TRẦN ĐÌNH SỬ
Ý kiến của tôi từ đầu đến giờ được các anh
chú ý vào trao đổi. Tôi xin ghi nhận, sau này có điều kiện tôi sẽ
trình bày rõ hơn, tránh gây hiểu nhầm. Ở đây xin được nói thêm, mô
hình của tôi chỉ thuần túy nói đến sự thay đổi loại hình văn học,
thể tài văn học. Mỗi loại hình văn học, thể tài văn học có một giới
hạn chiếm lĩnh đời sống, một sức dung chứa hiện thực. Thực tế chứng
minh mô hình văn học
có sức dung chứa nhiều hơn văn học
cách mạng. Còn như thuật ngữ "cách
mạng" hiểu theo nghĩa rộng thì "thơ mới" cũng là một hiện tượng có
tính cách mạng, nhưng ta không gọi là văn học cách mạng. Mỗi tên gọi
có lai lịch và hàm nghĩa lịch sử của nó. Tôi cũng đồng ý với anh Hiến về
việc cần tạo ra không khí đối thoại tin cậy, cởi mở. Chỉ có đối
thoại thẳng thắn cởi mở mới làm cho các ý kiến khác nhau góp phần
soi sáng thực tế và bổ ích cho sự nghiệp đổi mới. HÀ XUÂN TRƯỜNG
Vấn đề lớn, phức tạp, những ý kiến khác
nhau đã bắt đầu gây hứng khởi, nhưng cuộc tọa đàm đã không thể kéo
dài. Vì chức năng của tạp chí, chúng tôi không dám mà cũng không có
khả năng thay thế được Hội Nhà văn, báo
Văn nghệ
và các cơ quan chuyên trách. Chính vì thế, thành phần tọa đàm cũng
không thể đông hơn, chúng tôi rất tiếc không có mặt nhiều anh chị mà
chúng tôi chắc chắn là có những ý kiến hay, sắc sảo đóng góp cho
cuộc tọa đàm này. Kết luận cuộc tọa đàm, xin để tự mỗi người. Làm
trách nhiệm người chủ trì, tôi xin phát biểu lời kết thúc.
Sự đổi mới của văn học cũng như bao sự đổi
mới khác là cả một cuộc chuyển động biện chứng lâu dài; khẳng định
nó bắt đầu từ đâu, kể ra cũng là võ đoán. Đúng là Đại hội VI của
Đảng là sự kiện quyết định cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất
nước ta, nhưng để đi đến những nội dung mà Đại hội thông qua, Đảng
ta phải qua một quá trình trăn trở, tìm tòi, có cái được, có cái
chưa được, kể cả những việc làm từ Đại hội IV. Văn học thuộc lĩnh
vực nhận thức xã hội thông qua cá nhân nhà văn, nên không thể không
chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của xã hội và những chủ
trương, chính sách của Đảng. Vì thế, sự vận động của nó là đa dạng,
khi chậm, khi nhanh, khi bột phát, khi tiệm tiến... Tôi nhớ trước
Đại hội VI, đầu những năm 80 trên văn đàn đã có
Mùa lá rụng trong vườn
của Ma Văn Kháng, Cù lao Tràm
của Nguyễn Mạnh Tuấn, Khách ở quê
ra và một số truyện ngắn khác của
Nguyễn Minh Châu; trên điện ảnh và sân khấu mà cơ sở là kịch bản văn
học đã có Hy vọng cuối cùng
của Trần Hoàng Bách và Trần Phương,
Bao giờ cho đến tháng Mười
của Đặng Nhật Minh, Nhân danh công
lý của Nguyễn Khắc Niệm và Doãn
Hoàng Giang, và một số vở của Lưu Quang Vũ, v.v... Đặc biệt sau Đại
hội VI, tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật" được Đảng chủ trương càng
khuyến khích sự sáng tạo của nhà văn, sự đa dạng và đa diện của văn
học, ưu thế của văn học trong việc phanh phui các mặt của xã hội,
những mảng sâu kín của con người mà trước đây trong bối cảnh của
cuộc chiến tranh vì sự sống còn của dân tộc (và cả văn học và nhà
văn), chưa được đề cập. Hãy bỏ qua những mặt tiêu cực
có khi đầy ắp và đáng buồn cộm lên trong hoạt động văn học, do tính
tự phát của nền kinh tế thị trường, của nền sản xuất hàng hóa đang
được hình thành ùa vào lĩnh vực tinh thần của xã hội mà không có sự
ngăn cản thích đáng của các tổ chức và cơ quan lãnh đạo. Cũng hãy bỏ
qua những thái độ tiêu cực do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội, tuy không nhiều, nhưng là tất yếu của bất cứ một cuộc
khủng hoảng nào. Cũng bỏ ra ngoài mưu đồ của một số rất ít những
người dùng văn học làm công cụ hoạt động chính trị. Cuộc tọa đàm này
tập trung đánh giá mặt tích cực của văn học mấy năm nay, chủ yếu là
văn xuôi. Chính mặt tích cực đó đại diện cho sự đổi mới trong văn
học.
Nếu nhà văn như "cây liễu biết suy nghĩ"
thì làm sao chịu được những cơn gió mạnh, thậm chí có lúc như những
cơn bão của các thủ đoạn "thị trường". Không phải nói lên gân, làm
chức trách của nhà văn lúc này rất khó, phải vững và có bản lĩnh.
Nhìn ở mặt tích cực, chúng ta thấy sự cố gắng, tinh thần trách nhiệm
của nhiều nhà văn là không nhỏ, trên thực tế - trước hết là tác phẩm
- thì rõ ràng văn học đã và đang có sự đổi mới thực sự, về mọi mặt:
đề tài, chủ đề, nhân vật, cấu trúc, phong cách, văn phong, thể loại,
v.v... Về một đề tài đã quen thuộc lâu nay như chiến tranh, cái mới
ở chỗ đề cập đến thân phận khác nhau của con người, sự mất mát, sự
đau khổ của từng con người trong những hoàn cảnh khác nhau trong
chiến tranh. Nếu không miêu tả được những điều đó thì làm sao nổi
bật được sự hy sinh, chủ nghĩa anh hùng của từng con người, để cả
dân tộc làm nên chiến thắng. Cuộc sống xã hội một khi trở lại hòa
bình, nhưng lại không ở trạng thái bình thường, mà trong trạng thái
khủng hoảng, cái tiêu cực và tiêu cực xã hội xen lẫn, đấu tranh với
nhau. Sự chuyển mình của xã hội lâu ngày sống trong nền kinh tế tập
trung, quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường. Mặt phải và
mặt trái của kinh tế thị trường, của cạnh tranh, của sức mạnh đồng
tiền... Sự chao đảo trong xã hội, trong từng con người. Tất cả những
hiện thực ấy thông qua tâm lý, hành vi của từng con người cụ thể,
hình thành nên những nhân vật mới trong các tiểu thuyết, truyện ngắn
mấy năm gần đây. Ánh sáng, bóng tối, đen, trắng, nhờ nhờ... đạo đức,
tình yêu, tình dục... nhà văn tự do lựa chọn bằng sự mẫn cảm của
mình. Về đề tài cải cách ruộng đất đã có hàng chục tiểu thuyết và
truyện ngắn đã đề cập. Điều mà bạn đọc hay chính chúng ta - những
người sáng tác và phê bình - nhận xét có tính phê phán một số tác
phẩm về loại này, không phải ở sự miêu tả các mặt phản diện, thậm
chí bi thảm của những sai lầm, mà là sự nhận thức một chiều, sai
lệch cả một cuộc cách mạng ruộng đất đưa đến giải phóng người nông
dân, những người lính chân đất góp phần quyết định vào chiến thắng
Điện Biên Phủ, tạo nên những bộ mặt mới ở nông thôn nước ta. Không
khí tự do là thực sự trong sự vận động đổi mới của nền văn học nước
ta. Sự lựa chọn tác phẩm để trao giải thưởng văn học vừa qua của Hội
Nhà văn, và những truyện ngắn dự thi cùng với những phóng sự điều
tra của báo Văn nghệ
vài ba năm nay, là những chứng minh cụ thể những điều nói trên. Nhưng... Đúng là có chữ "nhưng"
to tướng còn che lấp tính mới mẻ của văn học nước ta - như nhiều anh
em đã đề cập đến mặt hạn chế, thậm chí mặt méo mó của hiện thực được
phản ảnh, được nhận thức trong một số tác phẩm, kể cả những tác phẩm
được chúng ta đánh giá cao. Đáng chú ý là đã có hiện tượng tác giả
tự lặp lại mình và lặp lại lẫn nhau, muốn tránh cực đoan này lại rơi
vào cực đoan khác. Cái "mới" vẫn là cái "cũ" - mặc dù tên sách, nhân
vật, tác giả khác nhau. Hơn nữa, cái mới vừa qua nói chung còn dừng
ở sự đề cập đến nhiều điều mà trước đây chưa được đề cập. Nói như
anh Phạm Tiến Duật, về đề tài, nhân vật, vấn đề, chưa ra khỏi những
vấn đề của các nhà văn Tự lực văn đoàn, và nhiều nhà văn khác trước
cách mạng, cái khác là trong bối cảnh nước ta hiện nay. Cái xu thế
mới, những vấn đề của một thời đại mới ở nước ta, những nhân vật mới
ví như những trí thức mới, những nhà khoa học, những nông dân mới,
những công dân mới, những nhà kinh doanh, v.v... Nói tóm lại, những
bộ mặt mới, những anh hùng mới của thời kỳ chuyển động mới của đất
nước, còn quá hiếm hoi, nếu có thì rất mờ nhạt, trong văn học đổi
mới của ta hiện nay. Tôi chợt nghĩ đến nền văn học Phục hưng, nền
văn học "Ánh sáng" của Pháp, những nền văn học đấu tranh, báo hiệu
cho một xã hội mới của nước Pháp. Cùng với sự nhận thức, khám phá
mới đối với quá khứ, cần có sự nhận thức, khám phá ngày hôm nay và
tương lai đất nước. Phải chăng ở đây có sự hạn chế về trình độ, về
nhận thức, về trách nhiệm công dân mà các nhà văn chúng ta phải vượt
qua để thực sự mở ra một thời kỳ mới cho nền văn học? Cuối cùng, tôi xin phát biểu
vài ý về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, một vấn đề quá
cũ, nhưng vẫn tồn tại. Qua một sự chuyển biến của cách mạng, vấn đề
lại được đặt ra: sự lãnh đạo và phương thức lãnh đạo. Nội dung chủ
yếu của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (trung ương khóa VI) là đề ra
phương hướng và một số biện pháp để giải quyết vấn đề ấy.
Nền văn học của mỗi nước là do đội ngũ nhà
văn của nước đó quyết định. Không ai sáng tạo ra nền văn học của một
nước ngoài những nhà văn của nước đó - tất nhiên tôi không hề coi
nhẹ phong trào văn học của
quần chúng. Ở thời đại nào cũng có
nền văn học của nó. Ở thời đại chúng ta, có Đảng lãnh đạo, tôi nghĩ
cũng không thể ra ngoài quy luật đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
nền văn học là từ thực tiễn của văn học mà có chủ trương, chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện cho nó phát triển. Điều quan trọng nhất
của sự phát triển văn học cũng như của mọi lĩnh vực tư tưởng và tinh
thần là tự do. Dưới sự đô hộ của thực dân và phong kiến, Đảng ta đấu
tranh cho quyền tự do yêu nước, quyền tự do sáng tạo vì lẽ phải của
cuộc đời, chống cường quyền, áp bức, thì một khi Đảng ta đã trở
thành đảng cầm quyền, tất yếu Đảng phải tạo điều kiện cho sự thực
hiện quyền tự do đó, bằng mọi cách, trong đó có sự đảm bảo cho các
khuynh hướng lành mạnh vì chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa đủ sức
tự mình chiếm được địa vị ưu thế trong xã hội (kể cả những trợ cấp
xuất bản, chăm lo tới đời sống vật chất của nhà văn...). Thời gian
vừa qua, chỉ thị, nghị quyết không thiếu, nhưng trên thực tế là
buông trôi, cái buông trôi lớn nhất là để cho khuynh hướng thương
mại, thị trường tự do lấn át, thậm chí khống chế các hoạt động văn
học chân chính. Trong lúc đó sự chỉ đạo nặng từ trên xuống, mà thiếu
sự xuất phát từ nghiên cứu thực tiễn của tình hình. Sự lãnh đạo của
đảng cầm quyền đối với văn học không phải là đảng nắm lấy văn học,
tạo nên văn học của đảng, mà là tạo điều kiện cho nền văn học dân
tộc phát triển, giúp đỡ cho những người tạo ra nền văn học đó -
những nhà văn và những người viết văn - điều kiện vật chất và tinh
thần để tự họ, bằng bản lĩnh của họ làm nên tác phẩm, tạo nên những
giá trị thực sự của nền văn học xã hội chủ nghĩa. Anh Trần Đình Sử có nói tới
"văn học cách mạng" và văn học. Một số anh đã phát biểu chung quanh
vấn đề nêu lên. Tôi cho rằng dù giải thích cách nào, sự phân chia
như vậy là không ổn. Cách mạng và tiến hóa, cao cả và đời thường,
cộng đồng và cá nhân là những quan hệ gắn liền với nhau, cái này
chứa đựng những yếu tố của cái kia, cái này vì cái kia. Tiến hóa là
vĩnh viễn, cách mạng không phải là thường trực, nhưng là cần thiết
cho sự tiến hóa. Vì sự tiến hóa mà có cách mạng. Cách mạng hiểu theo
nghĩa nào? Là thay đổi toàn bộ cái thực trạng bất hợp lý, hay là
những yếu tố làm động lực cho sự đổi thay? Hiểu theo ý nghĩa chính
trị hay quan điểm tiến hóa? Lấy đặc trưng và tiêu chí nào để đánh
giá văn học nào là văn học cách mạng, văn học nào là văn học. Đề
tài? Nhân vật? Tác giả? Thật là khó nói và gượng ép. Văn học có
nhiều khuynh hướng, mỗi nhà văn là một cá tính, nhưng tất cả đều
không thoát khỏi sự chi phối của lịch sử. Đánh giá văn học phải theo
quan điểm lịch sử, chính vì vậy mà có sự phân chia thời kỳ, giai
đoạn, các khuynh hướng, v.v.. Vì tính hạn chế của cuộc tọa đàm,
chúng ta có thể trao đổi vấn đề này vào một dịp khác, với một thành
phần rộng rãi hơn. Còn vấn đề tôn trọng tự do và
cá tính, tôi cho rằng đổi mới quan trọng nhất trong sự lãnh đạo của
Đảng đối với văn học là dựa trên sự phát huy tự do tư tưởng và tôn
trọng cá tính theo phương châm phát triển "tự do của mỗi người là
điều kiện phát triển tự do của mọi người". Có "mỗi người" và có "mọi
người", nghĩa là có cá nhân và cộng đồng. Tự do, cá tính không thể
trực tiếp chống lại, càng không thể làm hại tới lợi ích của cộng
đồng, lợi ích chính đáng của người khác. Giới hạn của tự do cá nhân
là sự thực thi dân chủ trong kỷ cương. Một chế độ dân chủ là chế độ
có luật pháp. Nước ta đang phấn đấu tới một nhà nước pháp quyền,
chính là để đảm bảo cho tự do cá nhân, và tôn trọng cá tính. Đổi mới trong văn học, điều
quan trọng nhất, quyết định nhất là cái nhìn và cái tâm của nhà văn.
Đề tài, nhân vật, phong cách, cá tính không là cái gì, nếu không có
được cái nhìn mang tính thời đại sâu sắc, thấu suốt nhân tình, nếu
không có được một cái tâm trong sáng, nhân ái cộng với ý thức đầy đủ
về chức trách cao cả của văn học (mà nhà văn là sứ giả) đối với con
người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có những cái đó
thì không có đổi mới. Đổi mới văn học, đồng nghĩa với sự phát triển
văn học, còn tùy thuộc vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới của
dân tộc. VÕ ĐĂNG THIÊN lược thuật
Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 11 (tháng 11-1991); số 12 (tháng 12-1991) 5-9-19 |