ĐỜI SỐNG VĂN
NGHỆ Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 23 (4-6-1988)
KHẨN
TRƯƠNG NHƯNG ĐỪNG NÓNG VỘI
VÕ VĂN TRỰC
Trong
một số cuộc trao đổi thơ, nhiều ý kiến cho rằng thơ không theo kịp
cuộc sống hiện tại. Nhiều nhà phê bình cũng nhận định như vậy. Nhưng
cũng nhiều ý kiến ngược lại, cho rằng thơ trong những năm gần đây có
khởi sắc, nhất là ở lớp nhà thơ chống Mỹ.
Hai
chiều hướng đánh giá thơ trên đây hầu như kéo dài đến năm, bảy năm
nay rồi. Xem chừng sự nhận định trái ngược này còn kéo dài ít ra
cũng đến năm, bảy năm nữa và có thể còn lâu hơn.
Điều có
thể dễ nhận thấy là công chúng không say mê đọc thơ như hồi kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Rõ ràng trong những ngày cả dân tộc
đối mặt với kẻ thù, thơ có tác dụng như một sức mạnh vật chất cùng
với hàng triệu người ra trận. Ấy thế mà sau khi tiếng súng tắt thì
tiếng thơ dường như chưa đủ sức vang động tâm hồn quần chúng trong
việc xây dựng nhân phẩm và xây dựng xã hội. Nguyên nhân vì sao, ta
hẵng bàn sau. Nhưng tình trạng đó không phải chỉ có ở Việt
Chưa
hẳn chất lượng nghệ thuật thơ đã bị sa sút so với những năm tháng
trước đây. Điều đặn hàng năm, vẫn có tên các nhà thơ trong danh sách
được giải thưởng Nobel. Vậy thì việc công chúng nhiệt tình tán
thưởng thơ hoặc tán thưởng một loại hình nghệ thuật nào đó trong
từng thời gian nhất định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố phức tạp
khác, chứ không chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng nghệ thuật.
Lời của truyện thơ Lục Vân Tiên và nhiều truyện Nôm khuyết
danh còn thô, sao đông đảo quần chúng lại thuộc và truyền tụng rộng
rãi? Hàng trăm hàng ngàn bài vè lục cà lục cục ra đời cách đây gần
thế kỷ, sao vẫn còn lưu lại trong trí nhớ các cụ già?...
Theo
tôi, nên bình tĩnh để nhìn nhận phong trào thơ một cách khoa học
hơn. Trong 10 năm qua, chúng ta đã đạt được ít nhiều thành tựu và có
một bước tiến nhất định so với mấy chục năm trước: đa dạng hơn về
hình thức, phong phú hơn về nội dung, sâu sắc hơn về mặt cá thể hóa
bản sắc của nhà thơ. Những tập thơ và trường ca được tặng thưởng
hàng năm của Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt
Nếu chỉ
nhìn vào mặt quần chúng ít tán thưởng và ít thuộc thơ hơn trước mà
đánh giá rằng chất lượng nghệ thuật thơ sút kém so với trước, tôi e
rằng hơi vội vàng. Có người gay gắt lên án thơ hiện nay là "giả tạo,
sơ lược, công thức". Có người quyết đoán rằng hầu hết thơ in trong
mấy năm vừa qua là "vô ích, vô bổ". Không ít bạn làm thơ mới hôm nào
nói rằng chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc đưa đời thường vào
thơ và chúng ta đã dũng cảm tự thể hiện mình với những buồn vui
riêng tư: bỗng nhiên hôm nay họ phủ nhận hoàn toàn ý kiến đó và cho
rằng "trong khi cuộc sống đang khốn đốn thế này mà lại cứ ngồi đào
sâu tâm trạng với những chuyện bình thường hàng ngày".
Những suy nghĩ có phần cực đoan trên đây nói chung đều xuất phát từ
động cơ tốt: phải kịp thời cứu xã hội đang tràn đầy những chuyện
tiêu cực, cứu nhân dân đang đói khổ. Từ đó, họ kêu gọi thơ phải
"xông vào cuộc", phải "đứng ở hàng đầu", phải "trở thành mũi nhọn
của cuộc đấu tranh"... Lời kêu gọi đó hoàn toàn là nhu cầu khẩn
thiết đối với mỗi nhà thơ chân chính. Nhưng nên bình tĩnh đặt câu
hỏi: cách "xông vào cuộc" của thơ như thế nào? Cách "đứng ở hàng
đầu" của thơ ra sao? Thơ "trở thành mũi nhọn" bằng cách nào? Mỗi
loại hình nghệ thuật có một cách biểu hiện hiện thực riêng, một thứ
ngôn ngữ riêng: không nên bắt buộc thơ cũng phải nhanh nhảu và trần
trụi như báo chí. Trong một cuộc tọa đàm văn học, có nhà phê bình
phát biểu "hiện nay văn học lạc hậu hơn báo". Với kiểu so sánh này
đã dẫn đến logic đơn giản và thô thiển: thơ lạc hậu hơn tiểu thuyết,
tiểu thuyết lạc hậu hơn bút ký và phóng sự, bút ký và phóng sự lạc
hậu hơn báo chí, báo chí lạc hậu hơn bản tin thông tấn xã (!).
Lời
phát biểu của nhà phê bình trên đây ít ra cũng hé mở cho ta biết vì
sao có tâm lý sốt ruột của một số bạn thơ. Hàng tuần, hàng ngày báo
chí đăng những bài phóng sự điều tra về các vụ tiêu cực, được quần
chúng tìm mua với giá cao và nồng nhiệt đón đọc. Còn thơ thì sao? Họ
hờ hững với thơ trong khi nội dung bài phóng sự điều tra đang cuốn
hút tâm trí họ.
Quần
chúng lạnh nhạt với nhiều bài thơ tròn trịa, trơn tru, ẽo ợt, nông
cạn, ca ngợi một chiều đã đành. Nhưng có bài thơ khá, thậm chí là
bài hay, in cùng số báo với bài phóng sự, người ta cũng không đọc.
Điều này cắt nghĩa sao đây? Các nhà thơ đâm ra lúng túng và vội vã
tự phủ nhận mình.
Chẳng
lẽ lại chịu xuống cấp dễ dãi viết những bài quá non kém về nghệ
thuật như bài Mùa xuân nhớ Bác của Phạm Thị Xuân Khải in báo
Tiền phong năm kia để được quần chúng vỗ tay trong chốc lát?
Một số vở kịch viết về chống tiêu cực được công diễn trong mấy năm
vừa qua, vé bán đắt như tôm tươi. Nhưng người xem đã ớn đi một cách
nhanh chóng, khi trên các loa phóng thanh, mặt tivi, mặt báo công bố
bao nhiêu vụ tiêu cực nặng nề - bản thân diễn viên cũng ớn chứ không
riêng gì người xem.
Do tâm
lý nôn nóng mà bắt đầu xuất hiện một số bài thơ xoàng về nghệ thuật
thuộc ba loại: triết lý buồn phiền về thế sự, biện luận khô khan, ăn
sống nuốt tươi hiện thực. Nếu chỉ ngồi triết lý thế sự thì cũng khó
sâu sắc bằng các cụ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến...
Nếu chỉ biện luận khô khan thì ngòi bút của các nhà thơ cũng không
trở nhanh bằng cái uốn lưỡi của các nhà tuyên huấn cơ hội. Nếu muốn
ăn sống nuốt tươi hiện thực thì đuổi sao kịp các bản tin đăng đầy
rẫy chuyện chống tiêu cực.
Cho nên, xin trở lại một nguyên lý cơ bản: nhà thơ phải sống hết
mình, rồi hãy viết. Và xin nhớ rằng, trong bất kỳ thời điểm nào, nhu
cầu tình cảm của quần chúng cũng có nhiều mặt: căm giận kẻ xấu xa,
quan hệ tình cảm bạn bè, quan hệ tình yêu nam nữ... Ở quê tôi có một
bác nông dân phải nộp sản lượng khoán quá cao, chịu nợ lưu cữu hợp
tác xã vụ này qua vụ khác từ 5 tạ lên 10 tạ, rồi lên 15 tạ, rồi 18
tạ. Với số nợ ấy, bác ngồi lo méo mặt. Nhưng ngày giỗ, bác cũng cố
gắng dọn mâm cơm chén rượu để mời bà con họ hàng. Rồi bác cũng phải
xoay trần ra tổ chức lễ cưới cho hai cậu con trai và một cô con gái.
Rồi phải che chắn dựng nhà dựng cửa cho con. Khi có đứa cháu đầu
lòng bác nấu ấm nước chè xanh thật ngon mời láng giềng tới chia vui
và trò chuyện đến quá nửa đêm.
Vậy mà
có bạn thơ phát biểu một cách chủ quan rằng: Bao nhiêu cặp trai gái
phải hoãn lễ cưới vì chưa tìm được nhà ở mà nỡ bình tâm ngồi viết
thơ tình yêu! Nông dân đang kéo cày thay trâu mà lại ngồi làm thơ về
cô gái đan len! Bao nhiêu bà mẹ của năm, sáu đứa con liệt sĩ đang
chạy ăn từng bữa mà nỡ ngồi làm thơ khóc mẹ mình chết!...
Với cái
lý luận này, có lẽ 10 năm sau ta lại ngồi kiểm điểm phê phán nhau
như 10 năm, 20 năm trước: thơ nệ đề tài, thơ có bề rộng mà thiếu bề
sâu, thơ có sự kiện mà không có tâm trạng, thơ thiếu cái đời thường
v.v...
Hiện
nay, quần chúng vẫn nhiệt tình đón đọc các tuyển tập của Nguyễn
Bính, Xuân Diệu, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy Cận. Xa hơn nữa,
người ta vẫn say mê đọc Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Hàng loạt tập thơ
tình in với số lượng cao ở thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu - Côn
Đảo, Quảng Nam - Đà Nẵng, Huế, Hà Bắc, vẫn bán chạy.
Nếu đòi
hỏi 160 hội viên thơ đều phải hối hả làm thơ chống tiêu cực thì thử
tưởng tượng nền thơ ta sẽ như thế nào? Giả dụ mỗi nhà thơ mỗi năm
viết ba bài thì trong một năm có 480 bài thơ chống tiêu cực. Nếu 480
bài ấy đều là thơ hay thì quý biết bao, nhưng e rằng khó lắm. Ai sẽ
tiêu thụ hết số thơ ấy? Và như vậy, vô hình trung ta lại quay trở về
quan niệm ấu trĩ trong văn học.
Dĩ
nhiên trong mỗi thời kỳ nhất định, quần chúng có những nhu cầu bức
thiết khác nhau. Thơ trước hết phải đáp ứng những nhu cầu bức thiết
ấy. Trong kháng chiến chống Pháp, nhu cầu bức thiết là phải đánh
thắng giặc Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhu cầu bức thiết là
phải đánh thắng giặc Mỹ và thống nhất nước nhà. Còn bây giờ, nhu cầu
bức thiết của quần chúng là phải thực sự dân chủ, giải phóng tiềm
lực lao động.
Nền thơ
ta đã có nhiều bài hay về đánh Pháp đánh Mỹ, chẳng lẽ lại không sản
sinh ra những bài thơ hay trong giai đoạn cách mạng mới hay sao?
Trên báo chí ở trung ương và ở các tỉnh, nhiều nhà thơ đã bày tỏ
những lời rất mạnh bạo, rất đau xót về tình trạng xã hội hiện thời,
và lên tiếng đòi hỏi nhà thơ phải khẩn trương "đứng ở hàng đầu",
"phải lao đầu vào trận", phải dùng thơ "làm vũ khí sắc bén nhất đánh
vào bọn cường hào, quan liêu mới"...
Xã hội
đang chuyển động mạnh mẽ. Thơ cũng đang chuyển động cùng với xã hội.
Nhưng chắc chắn thơ sẽ không chuyển động bồng bềnh theo những đợt
sóng ồn ào để rồi nhanh chóng vỡ tan như bọt nước, mà phải là những
viên ngọc trai nằm ở đáy bể được kết sáng giữa trùng trùng đại dương
của cuộc đời. John Baptixto Vico, một triết gia Italia cuối thế kỷ
XVII đầu thế kỷ XVIII yêu cầu các nhà thơ khi ngồi trước trang giấy
nên "rời bỏ những gì biến chuyển trong tạo vật để chú trọng vào
những gì có tính chất bất dịch và tất yếu". Đứng ở góc độ nghiêm túc
của thi ca, Vico rất có lý. Sống giữa bốn bề chao động của xã hội,
nhà thơ phải biết tìm ra những gì cốt lõi nhất để tạo nên cái tinh
túy cho thơ.
Trong
lĩnh vực thi ca nói riêng và trong nghệ thuật nói chung, tính chiến
đấu hoàn toàn không đồng nhất với sự ồn ào xốc nổi, tính tư tưởng
hoàn toàn không đồng nhất với sự lộ liễu thô thiển. Có người nói:
thơ phải đánh thẳng vào mọi cái tiêu cực của xã hội vừa trực diện
vừa không trực diện. Câu nói này dễ gây ra sự hiểu nhầm về hai
dạng thơ: một loại thơ nói toạc móng heo ra mọi điều muốn nói, một
dạng thơ có ẩn ý. Thật ra, một tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng
phải là một viên ngọc tự nó tỏa ánh sáng về nhiều phía. Tùy ở góc độ
của từng người mà nhận thấy ánh sáng đó màu xanh hoặc màu hồng hoặc
màu tím hoặc màu lam. Có một thời người ta lên án những bài thơ
"biểu tượng hai mặt", có nghĩa là đòi hỏi thơ phải nói thẳng tuột
ra, một là một, hai là hai; thơ không có quyền tạo cho người đọc
những suy tưởng xa xôi ngoài những điều đã thể hiện trùi trũi trên
trang giấy (!). Bây giờ các nhà thơ không ngại những sự suy diễn thô
bạo và độc ác như trước nữa. Chắc hẳn mọi người đều nhận thức rằng
thơ không những chỉ biểu tượng hai mặt, mà là ba mặt, bốn mặt, năm
mặt... gợi ra tầng tầng lớp lớp liên tưởng cho độc giả.
Lâu nay không ít anh em trong làng thơ vẫn ca thán rằng "các báo chỉ
dám in những bài nhàng nhàng ca ngợi một chiều, cho nên chỉ gửi
những bài thuộc loại nhàng nhàng ấy. Những bài tâm huyết nhất, hay
nhất vẫn nằm trong sổ tay". Nếu đúng vậy, xin mời bạn, đã đến lúc ra
quân rồi đấy.
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 23 (4-6-1988)
|