ĐỜI SỐNG VĂN
NGHỆ Nguồn: Văn nghệ quân đội, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1990)
ĐÔI
NÉT DIỆN MẠO THƠ BÂY GIỜ
VŨ
QUẦN PHƯƠNG
Trong mấy năm vừa qua, thơ có nhiều chuyển
biến. Về tác phẩm, những quan niệm rộng rãi, đúng
mực tạo thuận lợi cho thơ mở rộng đề tài và chủ đề. Khu vực trữ tình
cá thể vốn ít được khai thác trước kia, nay được nói tới nhiều, quá
nhiều. Thơ tình yêu tràn ngập trên sách báo, trong
các buổi đọc thơ câu lạc bộ, ban đầu rất được tiếp nhận. Nay bạn đọc
không còn háo hức như trước. Tòa soạn báo
Văn nghệ cho biết
trong cuộc thi thơ hiện nay, thơ tình yêu có mặt ở tất cả phong bì
gửi tới. Nhiều quá hóa lẩn thẩn và tủn mủn. Có những bài độc giả đọc
cũng thấy ngượng. Tình trạng này giống như nửa thế kỷ trước, báo chí
khi đó đã từng kêu vì lụt lội thơ tình. Sau đận này chắc thơ tình
yêu sẽ tìm về một tỷ lệ vừa phải, và người ta sẽ bình tĩnh đánh giá
cái hay cái dở, sự khó dễ của địa hạt sáng tạo này. Dù sao, trong sự
nở rộ về lượng đã có những bài thơ hay. Nhiều bài thơ ca ngợi cái tôi, đi tìm cái
tôi. Sự tìm về cái tôi cô đơn, tuy vậy không đến nỗi lạm phát. Người
viết không đầu tư nhiều vào vạt thơ này và cũng sớm nhận ra chỗ bế
tắc của nó. (Một bài thơ gần đây, Độc thoại trắng của Phạm
Thị Ngọc Liên, sau một hồi trò chuyện ve vuốt với cái tôi- trong
gương - tác giả có nhu cầu trở về đời). Sự tìm về cái tôi bây giờ có
chủ đề khác với thời Thơ Mới. Cái tôi hôm nay đòi tồn tại để chống
cái ta trừu tượng, phi nhân, chống sự tha hóa bản ngã. Tuy nhiên,
nói về cái tôi bao giờ cũng là việc khó, rất cần tinh tế và sâu sắc
việc đời. Chỗ này thơ ta lại chưa mạnh. Nỗi buồn từng bị coi là nhược điểm có tính
thẩm mỹ, một thiếu sót về đạo đức cách mạng, giờ đây có phần được
thơ nâng niu, cả cái buồn riêng tư lẫn cái buồn thời cuộc. Nhiều nỗi
buồn sinh ra từ sự không vừa lòng với hiện thực đời sống, đây đó có
thể gặp một thoáng chì chiết, mỉa mai, bất đắc chí. Cũng có nỗi buồn
như để làm dáng, nó không thật thành ra lập dị, dở người (như một
nhân vật trong thơ một cây bút mới, vào nhà gương dị dạng, thấy mọi
người cười thì lại khóc, khóc cho cuộc đời!) Nhiều nỗi éo le thế sự được thơ biết tới.
Dung lượng sự đời của thơ nhờ vậy lớn hơn, thấm thía, từng trải hơn,
gửi gắm nhiều kinh nghiệm sống. Đây là lợi thế của các nhà thơ
trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, giờ đây đang vào tuổi "tri
thiên mệnh". Thơ trữ tình cá nhân phát triển nhưng không
vì thế mà thơ trữ tình xã hội bị thu hẹp. Nhưng thơ xã hội có khác
trước về khuynh hướng cảm xúc; trước là ca ngợi, nay là bình giá,
bàn luận, nêu câu hỏi. Có một dạo thiên về chống tiêu cực, thơ cũng
nêu sự việc cụ thể, định tranh chức năng của báo. Nay đã bình tĩnh
hợn, sức khái quát cao dần. Hy vọng thời gian tới vạt đất này sẽ
nhiều hoa trái quý. Về tác giả, năm 1989 có đến một trăm tập thơ
của các tác giả mới xuất hiện. Trên báo
Văn nghệ hầu như số
nào cũng có tên tuổi mới. Những người làm thơ cũng không đủ thời
gian để đọc hết thơ của nhau. Lớp tác giả xuất
hiện sau năm 1975 hiện rất đông và chiếm già nửa diện tích các trang
thơ trên báo[i].
Một số cây bút đã được dư luận chú ý: Y Phương, Đinh Thị Thu Vân,
Ngô Minh, Phạm Thị Ngọc Liên và nhiều bạn khác. Lớp xuất hiện từ hồi đánh Mỹ đang sức viết.
Giọng thơ thâm trầm, lão thực hơn. Một số cây bút quen thuộc viết ít
đi thì bận các công việc quản lý. Một số khác có thay đổi nội dung
và bút pháp, làm mới lại diện mạo. Một số ít chuyển sang văn xuôi và
có thành công. Trong việc phát triển hội viên, cần nhớ tới nhiều cây
bút của lớp này ở các địa phương còn chưa được kết nạp, dù đã có
thâm niên thơ 20, 30 năm. Lớp cao niên, sáu - bảy - tám mươi tuổi,
ngày càng thưa vắng, sự hao hụt những tài năng lớn có ảnh hưởng đến
cả nền thơ. Các anh chị không còn là chủ lực, nhưng vẫn có bài hay
và mới nữa. Những nhà thơ được tuyển tập đều thuộc lớp này. Thật cảm
động trong vận hội mới này các anh chị vẫn kịp chuyển mình đi cùng
với cả nền thơ. Về vài quan điểm có tính học thuật Sự đổi mới tư duy xã hội làm thơ bật dậy, nở
rộ nhiều màu sắc. Đó là việc đáng mừng, hứa hẹn nhiều tốt đẹp. Cũng
có đôi điều cần bàn cho rõ. Về kỹ thuật làm
thơ, có đổi mới rõ rệt theo khuynh
hướng tự do hơn. Thơ ít vần và thơ không vần phát triển. Ngôn ngữ
của đời sống hàng ngày được tận dụng. Tuy nhiên, vẫn có sự cẩu thả ở
nhiều cây bút mới. Một bài tiểu luận thơ viết: "Nhiều tác giả trẻ
quá ham chuộng sự ồ ạt, như là nhân danh thời hiện đại, thơ hiện
đại. Mất thời gian, Nỗi buồn đứng, Vú đêm, Óc não thế kỷ nghe
ồ ạt mà lười biếng, dễ dãi (...) Cũng có thể người viết ồ ạt vì
người đọc ồ ạt. Hay tại người đọc thây kệ không chấp"[ii]. Giải thích hiện tượng này thì khó, nhưng để
thấy nó, chỉ cần đọc bất kỳ trang thơ nào trên báo chí bây giờ. Từ
ngày Xuân Diệu mất thấy thiếu đi một người thổi còi việt vị cho
những "kỹ thuật" quá trớn và ăn gian này. Về những thể nghiệm Sáng tác đòi hỏi được thể nghiệm. Nhưng dù ở lĩnh vực nào (làm thơ, chế thuốc
hay xây nhà) đưa thể nghiệm vào sử dụng đại trà đều cần kiểm nghiệm
xác nhận an toàn cho người tiêu dùng. Độc giả không phải là con
chuột lang. Thể nghiệm trong ống nghiệm khác thể nghiệm trong đời.
Một số bài thơ thể nghiệm trong 36 bài tính, trong
Ngựa
biển, trong
Thơ tình Bùi Chí Vinh, không được đông đảo
chấp nhận có lẽ vì người viết chưa quan tâm đầy đủ đến các khía cạnh
tác động của thơ mình, dù các tác giả đó đều đã từng có nhiều bài
hay, câu hay. Việc xuất bản thơ bây giờ nhiều lúc chỉ phụ thuộc vào
tài chính nên sự cân nhắc, nghiêm khắc với mình rất cần được đặt ra
với mỗi người viết. Về quan niệm: "cần chấm dứt lối thơ dễ hiểu" Đây là tinh thần một bài viết ngắn với nhiều
chữ nghĩa lạ, đại ý tác giả yêu cầu không nên chuộng loại thơ ai đọc
cũng hiểu lấy lý rằng: thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng không phải
là thơ dễ hiểu. Bài viết này không phải là không có lý khi tác giả
đòi quyền tìm tòi, mà những cái mới xưa nay thường là khó với cách
hiểu quen thuộc. Nhưng đẩy đến mức cực đoan dễ dẫn thơ vào cõi bí
hiểm tắc tị, khinh mạn độc giả, dễ gần với bịp bợm - nó vốn là một
khuynh hướng đã từng phê phán và phá sản trong thơ văn trước cách
mạng ở ta và trong cả nền thơ thế giới. Có điều lạ là nhân danh đổi
mới, dân chủ "bất khả tri" bay cao trên trí tuệ toàn dân là một mâu
thuẫn ngay từ trong bản chất. Và nếu ai đọc những câu thơ mà quan
điểm này biện hộ sẽ thấy sự ngụy biện và lộn sòng rất hại cho sáng
tạo đích thực. Cũng cần nói thêm, người bình dân ít chữ cũng hiểu và
thuộc, có hiểu mới thuộc, mới lấy ra và vận vào việc đời được, những
câu thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Cố nhiên để hiểu hết các vị ấy
lại là việc khác. Cứ lấy tiêu chuẩn thơ càng ít ai hiểu càng giá trị
thì rồi chúng ta sẽ đi tới đâu. Quan niệm này không mấy ai hưởng ứng, nhưng
cần phải nói vì nó được đăng trên báo
Văn nghệ,
tiếng nói của
Hội Nhà văn. Bây giờ cũng như mọi thời, làm cho cái hay
của thơ đến được mọi người là nhờ các nhà phê bình thơ. Nhưng làm
cho người đọc "kính nhi viễn chi" lảng xa thơ cũng có "công đầu" của
các nhà phê bình. Gần đây, sự khen chê, chủ yếu là khen, có
chiều dễ dãi. Một tập thơ xoàng nhưng tác giả chịu vận động nhờ vả,
có thể có 15, 20 bài biểu dương. Với lý do "giúp cho nó bán sách,
thu lại vốn". Nhiều bài viết sa xuống thành quảng cáo. Người sành
không ai tin, nhưng những thi phẩm của một vài cây bút lâu nay im
vắng, dù với lý do bù trừ của tình người, cũng không phải là việc
tốt cho quá trình xây dựng thị hiếu đúng. Tập thơ
Men đá vàng
của anh Hoàng Cầm là một tìm tòi mà theo ý riêng tôi là chưa thành
công, và rất khó đọc đối với trình độ chung. Một bài viết trên báo
Văn nghệ lại làm khó hiểu thêm. Bài viết về thơ ấy có đặc
điểm là không nói gì đến thơ, nó ca ngợi tác giả bằng cách ca ngợi
xứ sở Kinh Bắc "dải đất trung du hùng khí mà huê tình với những
tiếng cười ngọc vỡ, những xiêm y ngũ sắc" rồi lại ca ngợi nghề làm
gốm. Đoạn văn này đặt trong một bút ký thủ công nghiệp đáng được
khen, nhưng ở một bài bình luận thơ quả thật là nó vô bổ, không giúp
ta thấy được cái hay đích thực của thơ, mà lại có cái hại là làm
người ta sợ, rồi vì sợ mà lảng xa thơ, để thơ cho các "nhà" đọc với
nhau. Tác giả bài báo này tự nhận là một bạn đọc, bạn đọc vốn rộng
quyền ta không nên trách. Giá báo Văn nghệ có bài phê bình rõ
ràng hơn về tập thơ này rồi đăng bài của bạn đọc kia làm phụ họa thì
không sao. Chứ ý kiến duy nhất trên báo Hội Nhà văn mà như thế thì
ai còn biết hay dở thế nào. Tôi nói cụ thể vào bài viết này cũng chỉ
định lấy một ví dụ cho một lối phê bình đã thấy xuất hiện nhiều, lối
phê bình không phê bình vào tác phẩm mà chỉ biểu diễn tài văn chương
mây gió của nhà bình luận. Trong việc đưa thơ đến người đọc không
nên dựng thêm những chướng ngại vật như thế. Về việc in thơ và bán thơ In thơ bằng tiền của người viết, có cái hay
là mọi nhà thơ đều bình đẳng trước nhà xuất bản. Không còn cảnh xếp
hàng, hoặc bị "cây đa cây đề" lấn chỗ. Nhưng cũng có cái bất tiện là
nhà thơ lại phải biết kiếm ra tiền và người kiếm ra tiền nhiều khi
thơ lại xoàng. Cho nên sản phẩm thơ lưu hành trên thị trường hiện
nay không có gì đảm bảo chất lượng cả. Độc giả kính mến nếu có mua
lầm thơ dở vì mấy bìa đẹp lại có nhiều bài khen hùng hồn, thì ráng
chịu, coi tiền mua thơ như "học phí" học khôn. Chắc chắn rồi bạn đọc
sẽ có kinh nghiệm rằng nên tin tác giả nào, nhà bình luận nào, nhà
xuất bản nào. Nhà thơ, nhà khen chê, nhà xuất bản cũng vì thế mà
phải thận trọng hơn. Còn giờ đây, thưa bạn đọc kính yêu, đứng trước
quầy sách, bạn chỉ nên tin vào sự lựa chọn của chính bạn, vì mọi sự
đều có thể xảy ra ở cả nhà thơ, nhà bình luận lẫn nhà xuất bản, nhà
bán sách. Điều đó chưa vui đâu. Nhưng biết làm thế nào. Trước sự phát triển ào ạt và hỗn loạn của
thơ, nhiều người lo ngại thậm chí có người dự định quay lưng lại cái
thị trường thơ ồn ào ấy, làm thơ chỉ để mình đọc, thơ để "nhà dùng"
không bán, không rao. Tôi tin người cầm bút chúng ta ai cũng khát
khao đến được với độc giả. Chúng ta có đủ bình tĩnh để nhận ra đằng
sau sự hỗn độn ấy là một sức sống đang trỗi dậy của thơ, thể hiện ở
nhiều mặt: 1. Không có vùng cấm đối với thơ. Thơ sẽ hồn
nhiên hơn, thành thật hơn, xúc động hơn. 2. Sự đổi mới tư duy toàn xã hội làm hình
thành một nền tảng tâm lý mới, do đó một đòi hỏi mới đối với thơ.
Đây là tiền đề để tạo một nền thơ hoàn toàn mới mẻ (như đã xảy ra
vào các năm từ 1932 - 1942). 3. Số lượng người làm thơ đông đảo và có văn
hóa hiện nay đủ là một cội nguồn làm nảy sinh một lớp tài năng mới
đáp ứng được nhu cầu mới trên nền tảng tâm lý mới của xã hội. Đã cất lên đây đó một giọng thơ khác với
giọng thơ thời chống Mỹ, thời chống Pháp, và cả thời Thơ Mới, chưa
thành dàn nhưng người ta đã bắt đầu nhận ra âm sắc của nó. Trong âm
sắc ấy có khuôn mặt thơ ca của nhiều lứa tuổi và đáng kể hơn có lẽ
là khuôn mặt của người sẽ đến.
[i]
Trần Ninh Hồ thống kê trên 52 số báo Văn nghệ năm
1989, lớp này chiếm 50% số tác giả đăng thơ. Lớp chống Mỹ
35%. Lớp cao niên là phần còn lại.
[ii]
Phạm Tiến Duật, báo Văn nghệ, số 30, 29-7-1990.
Nguồn: Văn nghệ quân đội, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1990) 14-7-19 |