CHUYỆN ĐỜI TỰ KỂ
Hồi ký
Nguyễn Minh Đào
Chương I:
Tuổi thơ với quê hương.
Chương IV
TRONG LỬA ĐỎ
Về gia đình tôi vẫn đang sinh sống ở kinh Tám Ngàn là vùng giải phóng,
lực lượng kháng chiến địa phương thấy tôi lạ mặt, dáng vẻ dân thành thị
nghi ngờ làm dọ thám cho địch định “làm thịt” tôi, may sao các đồng chí
lãnh đạo tỉnh, huyện biết được can ngăn. Về sau tôi mới biết chuyện nầy,
hú hồn! Hơn một tháng, Huyện uỷ Tịnh Biên gọi tôi về văn phòng đang trú
đóng núi Dài xã Ba Chúc. Ông Năm Mạo bí thư Huyện uỷ triệu tập cuộc họp
kiểm thảo tôi, quyết định thi hành kỷ luật cảnh cáo và kéo dài thời kỳ
đảng viên dự bị mà không nói thời gian, về khuyết điểm vi phạm kỷ luật
đảng, tự ý bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến Đảng giao. Sau đó, Huyện uỷ
phân công tôi làm trưởng Tổ quân báo huyện.
Những
năm tháng công tác huyện Tịnh Biên tôi có nhiều bạn chiến đấu. Đặc biệt
có hai người bạn chí cốt để lại trong tôi niềm thương nỗi nhớ mãi khôn
nguôi! Đó là anh Chín Tiều, khi tôi làm trưởng tổ quân báo huyện, anh
làm trưởng Văn phòng Huyện đội. Tôi với anh gần gũi thân tình, cùng chia
ngọt sẻ bùi trong cuộc sống đầy khó khăn gian khổ! Về sau anh làm cán bộ
Ban An ninh tỉnh phụ trách vùng, có nhiều thành tích được phong Anh hùng
Quân đội, khi tôi về Tỉnh đội công tác được tin anh hy sinh! Người thứ
hai là anh Năm Hà, được Huyện đội bổ nhiệm làm phó cho tôi. Anh là con
em một gia đình cách mạng chí cốt xã Thới Sơn. Suốt thời gian công tác
huyện Tịnh Biên, mẹ và chị anh nuôi chứa tôi xem như người thân. Trong
công tác anh rất nhanh nhẹn, tháo vát và chân tình với bạn bè, đồng chí.
Anh hy sinh vì vướng lựu đạn gài của bộ phận cùng ở với anh trong lõm
căn cứ xã Thới Sơn. Thật đau lòng!
Mùa nước năm 1961, tôi được cử đi dự hội nghị Quân báo Khu 8 ở căn cứ
Đồng Tháp Mười, cùng với anh Mười Thành Công, trưởng Tiểu ban Quân báo
Tỉnh đội. Hai chúng tôi xuất phát từ núi Dài trên chiếc xuồng nhỏ, theo
đường dây giao liên xuống đồng tràm Huệ Đức - căn cứ huyện Châu Thành.
Đêm hôm sau, giao liên dẫn ra ém ngủ đêm nhà cơ sở mật phía trên cầu
Quay chừng một cây số trên bờ sông Hậu. Mờ sáng, chúng tôi cải trang làm
nông dân đi cắt cỏ, ba lô dấu dưới khoan xuồng, để trên mấy bó cỏ ngụy
trang. Một cô giao liên công khai bơi xuồng đi trước dẫn đường, đi qua
một số đồn dân vệ đến vùng giải phóng huyện Chợ Mới. Ở đó nghỉ mấy ngày,
một cô giao liên công khai khác tiếp tục dẫn đường, vượt qua sông Tiền
phía trên đồn Phong Mỹ vài trăm thước lúc nữa đêm, chờ trời rạng sáng cô
giao liên chỉ hướng chúng tôi tự đi vào cánh đồng nước mênh mông, xa xa
nhìn thấy những rặng cây, cô bảo đi vào đó sẽ gặp cán bộ, bộ đội hỏi tìm
nơi cần đến.
Lần mò đi tìm hơn một ngày, chúng tôi gặp cơ quan Quân báo Khu 8. Hội
nghị đã bế mạc, các đồng chí lãnh đạo làm việc riêng với chúng tôi. Hơn
một tuần sau chúng tôi sắp sửa quay về An Giang, nhận tin buồn anh rể
thứ Ba của tôi – Anh Trần Ngọc Quế, bí danh Ba Nhân hy sinh, cùng với
một tiểu đội bộ đội địa phương tỉnh do anh chỉ huy, bảo vệ bà Nguyễn Thị
Định trên đường công tác từ An Giang về miền Tây, đến xóm Cốc Đạo Cậy xã
Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú bị địch truy đánh. Trên đường về, chúng tôi
đến xóm Cốc Đạo Cậy lúc nữa đêm, được đồng bào dẫn đi xem nơi diển ra
trận đánh không ngang sức. Quân ta không tới 10 tay súng, bám trên gò
tre nhỏ giữa đồng nước, đương đầu với địch đi trên giang thuyền. Anh Ba
Nhân chỉ huy anh em chiến đấu bảo vệ đoàn bà Nguyễn Thị Định rút đi an
toàn, diệt một số tên địch. Chúng tôi đến đó sau trận đánh vài ngày, còn
lưu lại dấu dết những cành tre bị bắn gãy đổ chưa khô lá, những đám lúa
mùa còn nhàu nát và thoang thoảng trong gió mùa thuốc súng. Một bác nông
dân chứng kiến cuộc chiến đấu sinh tử của quân ta kể lại diển biến từ
đầu đến cuối, luôn nhắc đến người chỉ huy dũng cảm, chỉ huy anh em chiến
đấu kiên cường đến người cuối cùng! Tôi nghe mà lòng quặn thắc một nỗi
đau!
Năm 1963 Huyện ủy, Huyện đội giao tôi kiêm nhiệm làm trưởng Văn phòng
huyện đội, sau đó làm trưởng Văn phòng huyện ủy. Tôi đi kháng chiến 11
tuổi học hành dang dở, nhờ có chút năng khiếu “cạo giấy”, nên cuộc đời
làm cách mạng của tôi có nhiều năm làm công tác văn phòng, khởi đầu ở
huyện Tịnh Biên.
Ngày 31 tháng 7 năm 1964, sau khi được gia đình đôi bên và Ban thường vụ
Huyện ủy chấp nhận, tôi làm lể thành hôn với cô gái công tác cùng cơ
quan với tôi. Vợ chồng tôi chung sống đến ngày “răng long tóc bạc” hôm
nay. Cuộc hôn nhân thời chiến của chúng tôi kể ra khá lãng mạn, đong đầy
kỷ niệm! Lể tuyên hôn được tổ chức nhân bế mạc hội nghị cán bộ Huyện ủy,
do ông Mạnh Hà bí thư chi bộ làm chủ lể. Sau bữa cơm thân mật buổi
chiều, mọi người quây quần trong hội trường, có trang trí bàn thờ Tổ
quốc, cô dâu chú rể “đứng hầu” hai bên nghe ông chủ lể “thuyết giáo”,
sau cùng tôi hứa hẹn… Nghi lể vừa xong chốt lát, bổng nghe tiếng pháo
đề-pa từ trận địa pháo Ba chúc, đạn rít qua đầu nổ ầm ầm chung quanh.
Mọi người nhanh chóng chạy tản ra. Hầm trú ẩn không đủ, nhường cho người
già, phụ nử, trẻ em, tôi và các bạn trẻ nằm phơi trên mặt đất. Địch bắn
hàng chục quả pháo, có mấy quả nổ rất gần, mãnh đạn văng sát chổ tôi
nằm, tiện đứt cành cây gãy đổ trước mặt, rất may không có quả nào rơi
trúng nơi hành lể. Trận bắn pháo không bình thường, Ban An ninh huyện
phát hiện tên gián điệp nữ ở xóm Ô Cạn bắt điều tra, thị khai thấy anh
em ta mượn nồi niêu, chén bát chuẩn bị lể cưới cho tôi báo với đồn Phổ
Đà Ba Chúc: “Việt cộng đang hội họp, ăn uống đông người…” và chỉ
điểm chúng bắn pháo. Tên gián điệp đền tội làm tay sai cho địch!
Vợ tôi khi ấy làm y tá Văn phòng Huyện đội. Sau ngày cưới được điều về
Văn phòng Huyện ủy làm nhân viên đánh máy. Khi mang thai về gia đình tôi
ở kinh Tám Ngàn sinh một bé trai kháu khỉnh. Ba Má tôi làm lể mừng cháu
nội đầy tháng, tôi về dự lòng tràn ngập niềm vui! Trở về cơ quan mấy
hôm, được tin con tôi bệnh chết. Tôi bàng hoàng đau xót! Hình ảnh đứa
con bé bỏng yêu thương cứ lảng vảng trong đầu tôi! Ba đưa vợ tôi về cơ
quan tiếp tục công tác. Thương nhớ con, nhất là ban đêm bầu sữa căng
tròn, vợ tôi nhớ con khóc rấm rứt cả tháng! Năm 1965, máy bay địch ném
bom trúng nhà tôi tan hoang, may mắn cả nhà kịp chạy thoát! Ba Má tôi
góp nhặt những gì còn lại xuống chiếc ghe nhỏ, cùng mấy đứa cháu ngoại
sống bập bềnh trên dòng kinh Lương An Trà.
Giửa năm 1968 tôi nhận quyết định điều động về Văn phòng Tỉnh đội làm
trợ lý chiến sự - chức năng như chánh văn phòng và được phong cấp đại
đội chánh trị bậc phó, tức thiếu uý. Các cơ quan tỉnh khi ấy trú đóng
đồi Tức Dụp (núi Tô). Đến cơ quan Tỉnh đội được anh Vũ Khắc Sương Tỉnh
đội trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ và hướng dẫn tôi đến chổ ở dành cho
tôi. Đó là một hốc đá nhỏ, nằm trong dãy lò ảng tầng tầng lớp lớp của
đồi Tức Dụp. Vài ngày sau tôi nếm mùi trận bom đầu tiên của địch, có mấy
quả rơi trên đầu, tiếng nổ chát chúa, khói bụi mù mịt len theo kẹt đá
vào tận hang sâu nơi cơ quan trú ẩn. Khi ấy địch đánh phá đồi Tức Dụp
chưa ác liệt. Hàng ngày vào đầu giờ làm việc buổi sáng, tôi chui khỏi
hang hít thở không khí ban mai trong lành, đi nhởn nhơ ngắm cảnh sang
Văn phòng Tỉnh ủy họp giao ban. Hôm nọ, đi ngang khu vực Dân y tỉnh, tôi
thấy có một bệnh nhân nữ gương mặt khá xinh, chừng 18, 19 tuổi, nằm trên
bộ vạt tre kê dưới vòm hang đá nhỏ bên vệ đường. Cô mặc chiếc quần đen
nhàu nát, trên người chỉ đắp chiếc khăn rằn, sau lưng có mấy vết loét
sâu. Cô luôn rên rĩ la hét, cười nói lảm nhảm như người mất trí. Tôi hỏi
những người biết chuyện kể: Cô quê Cà Mau, đi thanh niên xung phong vận
tải súng đạn từ biên giới Campuchia qua An Giang về miền Tây. Trong một
trận địch càn quét núi Tô, cô bị sốt rét nặng, đồng đội đem giấu dưới
hang đá, không rõ vì sao người ta bỏ rơi cô. Gần mười ngày sau, anh em
nhân viên một cơ quan tỉnh phát hiện cô trong tình trạng đói lả, thân
thể lở loét, đem về Dân y tỉnh cứu chữa. Tôi hỏi bác sĩ trưởng dân y về
khả năng cứu chữa cô gái, ông cho biết trong điều kiện của ta hiện nay
khó có thể chữa lành các vết
loét…!
Giữa năm
1968 Sư đoàn 1 Anh hùng – Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được Bộ tư
lệnh Miền điều về đứng chân chiến trường Bảy Núi, xây dựng đầu cầu mở
hành lang chuyển Sư đoàn về miền Tây. Cuối năm 1970 tôi là trung úy trợ
lý tuyên huấn Ban chánh trị Tỉnh đội, được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền
phương Tỉnh đội vừa thành lập do anh Trần Thế Lộc, thường gọi Bảy Phong
– tỉnh đội phó phụ trách, về Bảy Núi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị
bộ đội địa phương tỉnh có mặt như Đại đội 381 đặc công, Đại đội 385 trợ
chiến và Tiểu đoàn A.11 (Quân khu 8 biệt phái) hoạt động độc lập hoặc
phối hợp với bộ đội chủ lực. Lúc nầy địch đánh phá phong tỏa biên giới
trên tuyến kinh Vĩnh Tế rất quyết liệt. Chúng tôi hành quân từ căn cứ B3
– Vạt Lài huyện An Phú tới núi Som (Campuchia) tiếp giáp biên giới huyện
Tịnh Biên, mất gần hai tháng mới “dùi” qua được kinh Vĩnh Tế về núi Dài
– xã Ba Chúc. Lúc đầu trú đóng Ô Vàng – xã Lê Trì, sau bám trụ đồi Ô Tà
Sóc – núi Dài xã Lương Phi.
Đặt chơn lên đồi Ô Tà Sóc, nhìn ngọn đồi bị bom cày đạn xới trơ trụi tôi
ngỡ ngàng! Nhớ năm 1962 tôi công tác huyện Tịnh Biên, được cử đi học
trường chánh trị Trần Phú của tỉnh trú đóng cùng cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh
đội nơi đây. Hồi ấy, ngọn đồi này hoang sơ, rất nhiều cây cổ thụ hai ba
người ôm, tàng cây liền nhau che ánh nắng mặt trời không xuyên tới đất,
không khí ẩm ướt, lạnh lẽo, rất nhiều rắn rết, cọp beo… ! Vậy mà nay bom
đạn địch tàn phá sạch ngọn đồi, chỉ còn hang đá – dân bản địa gọi là lò
ảng lồ lộ giữa trời, không còn một gốc cây xanh! Ban đêm tôi đi công tác
về, xa xa nhìn ngọn đồi âm u, đó đây những cây cổ thụ bị bom đạn chặt
đứt chết khô, các trận bom trong ngày đốt cháy như ngọn đuốc bập bùng!
Các bộ phận trong Ban chỉ huy tiền phương ăn ở trong một dãy lò ảng liền
nhau, chung quanh có các đơn vị bộ đội chủ lực Miền trú đóng. Các điểm
cao trước mặt và sau lưng địch đóng chốt, không chế ta dưới tầm hỏa lực
và chỉ điểm phi pháo oanh kích bất cứ lúc nào khi phát hiện bóng người,
hay khói lửa trong khu vực quân ta trú đóng. Tôi không hiểu vì sao nhiều
tháng qua quân ta không bung ra đánh địch trận nào, mặc cho chúng mưa
làm gió, không ngày nào địch không dội bom pháo xuống ngọn đồi năm lần
bảy lượt. Với lò ảng tầng tầng hiểm trở, bom pháo thông thường và bộ
binh địch không làm gì được quân ta. Bọn chỉ huy địch hiểu được điều đó,
chúng nghiên cứu cách đánh và sử dụng những loại vũ khí có khả năng sát
thương quân ta dưới các tầng lò ảng. Đòn đánh ác hiểm nhất là vài ba
ngày địch dùng trực thăng cần cẩu treo dưới bụng bọc trong tấm lưới hàng
chục phuy xăng, khi bay đến mục tiêu thã một đầu lưới, phuy xăng rơi
xuống đá bể, một trực thăng vũ trang chúng tôi gọi “cá lẹp” bay phía sau
phóng pháo, xăng chảy tới đâu lửa cháy đến đó. Trong vài ba phi vụ như
vậy, có một phi vụ trực thăng cần cẩu mang loại hóa chất gì đó, có người
nói xăng bột (?) khi “cá lẹp” phóng pháo không gây cháy, mà tạo sức ép
không khí rất mạnh, nếu bị đánh trúng sức ép làm chết người, người chết
quần áo bị xé nát, mắt và lưỡi lòi ra ngoài, nếu ở xa một vài trăm mét
tức ngực khó thở, tôi và anh em đã đôi lần nếm mùi! Trước khi chúng tôi
đến Ô Tà Sóc không lâu, nghe nói có một phi vụ địch đánh trúng bệnh xá
quân y trung đoàn thuộc Sư đoàn, trong chốt lát hàng chục thương binh và
cán bộ, chiến sĩ đơn vị thương vong! Thứ hai là loại hỏa tiển không đối
đất phóng từ trên máy bay có sức công phá lớn, có thể bể tảng đá đường
kính năm, bảy mét. Theo anh em kể, trước khi tôi về đây vài tháng, tổ
tiền tiêu bộ đội chủ lực chốt chặn trên đồi Ma Thiên Lãnh (trong quần
thể đồi Ô Tà Sóc) phòng ngự trong hang đá, bị hỏa tiển phóng trúng bể đá
lấp cửa hang, nhốt các chiến sĩ còn sống trong hang kêu cứu: “Cứu
chúng tôi các đồng chí ơi…!”. Dù hết sức cố gắng cũng không thể mở
cửa hang cứu anh em, đành dùng ống tre đưa thức ăn, nước uống vào hang
cho anh em, vài hôm tiếng kêu cứu tắt lịm dần… Tất cả hy sinh! Mãi những
năm sau nầy ta mới phá cửa hang đưa hài cốt các liệt sĩ về nghĩa trang!
Địch còn có cách đánh khuấy rối như giữa đêm khuya dùng máy bay vận tãi
bay trên tầng mây, bất ngờ “cắt” một quả bom cở lớn xuống căn cứ ta,
chúng tôi gọi là “bom trộm”. Hay hàng đêm vào chập tối, hoặc giữa khuya
chúng dập vài chục quả pháo ở đoạn đường mòn độc đạo quân ta đi lại hàng
ngày qua Bụng Ông Địa xuống Ô Tà Miệt – xã Lương Phi. Các loại vũ khí
gây sát thương lớn địch thi thố với ta không thiếu thứ gì, trừ bom
nguyên tử chiến thuật. Máy bay B.52 những năm trước địch có sử dụng, về
sau địch đóng chốt các điểm cao, ta và địch ở trong thế cày răng lược
địch không sử dụng. Chất độc dioxin làm rụng lá cây tôi chưa thấy địch
sử dụng ở đây, vì không có cây xanh. Chỉ có chất độc CS làm cay mắt,
thỉnh thoảng địch dùng trực thăng cần cẩu ném xuống một phi vụ cả chục
thùng như thùng nhựa đường rơi xuống đá bể, chất độc CS bột màu trắng
ngà bám trên mặt đá, gió bay trong không khí làm cay mắt không chịu nổi…
! Còn phải kể đến loại vũ khí nhỏ không kém phần nguy hiểm như “bom lá”,
giống chiếc lá cây rừng rụng trên mặt đất, nếu giẫm phải nổ đứt bàn
chân. Hay như “bom bươm bướm” – theo cách gọi của quân ta, từ trong trái
bom mẹ trên máy bay ném xuống lưng chừng, nổ văng ra rất nhiều trái, khi
chạm đất hoặc vướng cây bung ra bốn sợi dây cước căng bốn góc, ta đi
vướng nổ sát thương. Có người nói tôi mới để ý quả lựu đạn “cá nóc” hình
tròn, địch nghiên cứu đánh ta trong hang đá, dể dàng lăn xuống tới đáy
hang mới nổ. Địch đánh phá day dẳng ác liệt nhằm tiêu hao sinh lực quân ta, tôi nghe thấy không ngày nào quân ta không thương vong vì bom đạn địch, vì bị phục kích khi đột nhập “ấp chiến lược” mua gạo, vì đi qua kênh Vĩnh Tế về hậu cứ, hay chết vì bệnh sốt rét ác tính v.v…! Địch kết họp chiến tranh tâm lý, thường xuyên dùng máy bay rãi truyền đơn trắng trời đi nơi nào cũng gặp, lớp cũ mục, lớp mới chồng lên và phát loa “chiêu hồi” từ trên máy bay vận tải bay cả ngày trên tầng mây, tiếng động cơ và tiếng phát loa nghe văng vẳng khi xa khi gần lập đi lập lại một câu “hoặc tử thần, hoặc chiêu hồi” gây cãm giác nhàm chán, buồn ngủ…!
Địch dùng bom đạn đánh phá trực diện, kết họp chiến tranh tâm lý và
phong tỏa nguồn tiếp tế của quân ta. Trên kinh Vĩnh Tế thâu đêm suốt
sáng chúng rãi bộ binh, kết họp giang thuyền phục kích từng cụm dày đặc.
Từng tốp trực thăng vũ trang bay theo đội hình dọc kinh thả trái sáng,
rọi đèn pha rà đi quét lại, soi mói từng lùm cây bụi cỏ, khi phát hiện
quân ta, hay có dấu hiệu nghi ngờ chúng bắn như đổ đạn và gọi “pháo bầy”
bắn cấp tập! Việc qua lại kinh Vĩnh Tế của quân ta ngày càng khốc liệt,
nhiều chuyến phải mất một hai tháng mới qua được, anh em ta gọi kinh
Vĩnh Tế là “kinh Vĩnh Biệt”! Tôi nghe nói lại, anh Ba Trân Sư đoàn
trưởng bị địch bắt khi lọt ổ phục kích trên tuyến kinh nầy, tiểu đội bảo
vệ anh hy sinh, anh y tá đeo túi cứu thương hy sinh bên cạnh, anh nhanh
trí lấy túi cứu thương quàng vào cổ anh, địch bắt điều tra anh khai làm
y tá, nhờ có chút hiểu biết thuốc men và băng bó vết thương anh qua mắt
được địch, chúng điều tra không phát hiện ra anh, ở tù mấy năm anh được
trao trả sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 ở sông Thạch Hãn – Quảng Trị.
Con đường tiếp tế từ hậu cứ của quân ta trên đất Campuchia qua kinh Vĩnh
Tế địch phong tỏa gần như bị cắt đứt, nguồn tiếp tế tại chổ do bị địch
gom dân ra “ấp chiến lược” và cấm dân vào vùng căn cứ ta, ban đêm bố trí
quân địa phương phục kích quanh các “ấp chiến lược”, nên đột nhập vào ấp
mua gạo và nhu yếu phẩm thường trả giá bằng máu! Một lần, đội Trinh sát
quân báo tỉnh cùng một số đồng chí thuộc Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh
đội hơn mười người, đột nhập vào ấp Thanh Lương – núi Tượng xã Ba Chúc
mua gạo, lọt ổ phục kích chỉ còn vài đồng chí sống sót trở về…!
Tình thế hết sức gay go! Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn ăn đói, mặc rách,
thiếu thốn mọi thứ… ! Tôi đi công tác ban đêm thường gặp từng tốp năm
bảy anh em đi tìm cái ăn. Mùa lúa chín thấy anh em ra đồng tướt từng
bông lúa đem về lấy nón sắt giã nấu cháo, hoặc đào trộm khoai của dân
rồi viết giấy để lại xin lổi. Chuyện này tôi nghe chú Tư Ngự - một lảo
nông du kích nhà ở Ô Cạn kể lại, với thái độ rất thương cãm quân ta! Chú
còn nói khi thu hoạch khoai làm như vô ý bỏ sót lại rất nhiều, để tối
anh em đến lấy ăn!
Sư đoàn 1 là đơn vị chủ lực thiện chiến của Miền từng có mặt trên các
chiến trường từ nam Trung bộ, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Tôi nghe
anh em nói không có chiến trường nào gian khổ, ác liệt bằng Bảy Núi – An
Giang! Vì những nơi đó địa bàn đứng chân rộng, khác hẳn nơi này căn cứ
nhỏ hẹp, vừa bị địch vây đánh trực diện ngày đêm, vừa bị phong tỏa cắt
đứt nguồn tiếp vận…! Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn cùng cực! Chiến sĩ Sư
đoàn khi ấy theo tôi biết phần lớn tân binh quê miền Bắc, tôi không nghe
thấy anh em nào kêu than, không ai “chiêu hồi”! Gần đây tôi có dịp tiếp
xúc một đồng chí cựu chiến binh Sư đoàn là cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn
của Sư đoàn, đồng chí cho biết thời gian Sư đoàn ở chiến trường Bảy Núi
thương vong khoảng 2 ngàn cán bộ chiến sĩ, đến nay còn hàng trăm liệt sĩ
chưa tìm được hài cốt! Tác giả gởi cho viet-studies ngày 25-2-21 |