Phong trào Phật giáo miền Trung – Huế từ Chấn hưng đến Dấn thân
Chu Sơn
Phần Hai
Phong trào Phật giáo Miền Trung - Huế
thời kỳ dấn thân
(1954-1966)
*****
Chương I
-
Chương II
Chương
VII
Cuộc
dấn thân lần thứ tư:
Hợp
tác với Chính phủ Phan Huy Quát
Trong xu thế đẩy mạnh cuộc chiến tranh
chống Cộng trên cả hai miền Nam – Bắc, một mặt, Mỹ củng cố quyền lực cho
các tướng trẻ qua Hội đồng Quân lực, một mặt cho không quân đánh phá
miền Bắc và chuẩn bị đỗ quân để Mỹ hóa chiến tranh ở miền Nam. Chính phủ
ủy nhiệm Nguyễn Xuân Oánh, rồi chính phủ Phan Huy Quát, cả hai đều
là giải pháp tình thế để triển hạn và ru ngủ Phật giáo trong khi
chờ đợi tìm được con ngựa mới có khả năng giúp Mỹ đánh thắng Cộng Sản.
Phan Huy Quát thân Phật giáo, sự việc
này ai cũng biết. CIA biết.
Hai ngày sau khi Phan Huy Quát thành lập
chính phủ, ngày 19.2.1964 tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo
kéo quân vào Sài Gòn làm đảo chánh. Đây là cuộc biểu dương lực lượng của
Khối Công giáo đấu tranh trên danh nghĩa Lực lượng Bảo vệ Dân tộc. Mục
tiêu của lực lượng này là chống Khánh ( vì Khánh đã không kiên định lập
trường quân phiệt), đồng thời chống chính phủ Phan Huy Quát thân Phật
giáo.
Nguyễn Chánh Thi từ miền Trung vào đảm
trách chức vụ tư lệnh giải phóng thủ đô, cùng Kỳ
– Thiệu và các tướng trẻ trong Hội đồng Quân lực chống đảo chánh.
Đảo chánh bất thành, Lâm Văn Phát và các đồng sự đầu hàng, được
miễn tội và được trở lại quân ngũ. Phạm Ngọc Thảo (điệp viên Cộng Sản
vừa được phát hiện) trốn chạy, bị quân của Nguyễn Văn Thiệu (Hội Đồng
Quân Lực) truy bắt và bức tử .
Ngày 20. 2.1964 Hội đồng Quân lực (dĩ
nhiên là Đại sứ Taylor đứng đằng sau) quyết định thay thế Nguyễn Khánh
bằng tướng Trần Văn Minh trong chức vị tổng tư lệnh quân đội, vì cho
rằng Nguyễn Khánh âm mưu tạo ra xáo trộn để củng cố quyền lực. (Đỗ Mậu
sđd, tr 543).
Phải chăng quyết định loại bỏ Khánh phát
xuất từ Hội đồng Quân lực và nguyên nhân chính là “do Khánh đã tạo tác
ra các vụ xáo trộn để củng cố quyền lực”? Vấn đề chắc chắn không đơn
giản như thế.
Ở miền
Trục trặc thật sự nghiêm trọng giữa đại
sứ Taylor và Nguyễn Khánh xẩy ra vào đêm 20.11.1964, khi trước đó Nguyễn
Khánh và Hội đồng Quân lực do ông thành lập quyết định giải tán Thượng
Hội đồng Quốc gia và bắt giam 21 nhân vật là nhân sĩ, trí thức, sinh
viên – những người mà Nguyễn Khánh và các tướng trẻ cho là nguồn gốc của
chia rẽ, gây xáo trộn nội bộ. Đại sứ
Ngày 25.11.1964 Nguyễn Khánh tuyên bố
với báo NewYork Herald Tribune: “ Đại sứ
Trục trặc thứ ba còn nghiêm trọng hơn do
Phạm Xuân Ẩn kể lại. Phạm Xuân Ẩn là điệp viên cao cấp của Cộng Sản, làm
việc cho chi nhánh tại Sài Gòn của tạp chí Time, “bạn rất thân” của Lou
Conein – người điều hành cơ quan CIA ở miền
Nguyễn Khánh cắn câu, thổ lộ hết những
suy nghĩ của mình với Lou Conein. ( Larry Berman – Perfect spy, Điệp
Viên Hoàn Hảo – Nguyễn Đại Phương dịch, các trang 256, 257, 258).
Vào thời điểm đó tổng thống Johnson đang
ráo riết chuẩn bị Mỹ hóa chiến tranh. Thế mà, Nguyễn Khánh đã tỏ ra
thiếu kiên định lập trường quân phiệt, đã “phản ứng dân tộc mạnh mẽ”
trước thái độ chủ nhân ông của đại sứ Mỹ, lại còn muốn thương lượng với
Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Người Mỹ không tìm kiếm một trợ thủ với
những khuyết tật trầm trọng như thế.
Ngày 22. 2.1964 Nguyễn Khánh chính thức
rời bỏ chính trường, bị buộc phải ra nước ngoài với chức vụ đại sứ lưu
động. Không biết ai đã ký quyết định bổ nhiệm đại sứ lưu động cho Nguyễn
Khánh? Quốc trưởng Phan Khắc Sửu chăng? Chẳng thấy thủ tướng Phan Huy
Quát dính dự gì trong việc này. Chắc đây là quyết định của đại sứ
Phan Huy Quát là một lãnh tụ Đại Việt
gốc miền Bắc, được CIA chú ý từ khi còn là bộ trưởng quốc phòng trong
chính phủ Quốc gia thời kỳ người Pháp sử dụng giải pháp Bảo Đại để chống
lại Việt Minh. Sau 1954, Mỹ chọn Ngô Đình Diệm làm tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa. Cũng như Trần Văn Đỗ, Phan Quang Đán, Phan Huy Quát là một
trong vài ba nhân vật dự bị của Mỹ (nhằm thay thế trong trường hợp Diệm
bị loại). Sau 1954, Đại Việt miền Trung bị Ngô Đình Cẩn đánh dẹp. Đại
Việt miền Bắc di cư bị Ngô Đình Nhu kèm kẹp ở Sài Gòn. Các lãnh tụ hoặc
chạy ra nước ngoài (như Nguyễn Tôn Hoàn), hoặc nằm yên (như Phan Huy
Quát, Hà Thúc Ký…). Giữa năm 1963, Phan Huy Quát liên kết với Phật giáo
miền Trung trong công cuộc vận động đòi tự do và bình đẳng tôn giáo.
Diệm đổ, Dương Văn Minh cầm quyền cử Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính
phủ. Đảng Đại Việt hậu thuẫn cho Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý 30.1.
1964. Chỉnh lý thành công, Nguyễn Khánh vừa làm chủ tịch Hội đồng Quân
đội Cách mạng, vừa giành chức thủ tướng mà Đại Việt nhắm. Bất đắc dĩ,
Nguyễn Tôn Hoàn nhận chức phó thủ tướng, Hà Thúc Ký làm tổng trưởng nội
vụ, Phan Huy Quát làm tổng trưởng ngoại giao. Đảng Đại Việt tranh chấp
quyền lực với Nguyễn Khánh và tự phân liệt, các lãnh tụ tìm hướng đi
riêng. Nguyễn Tôn Hoàn liên kết với cánh Công giáo miền
Sau khi loại bỏ Nguyễn Khánh, tòa Đại sứ
Mỹ củng cố quyền lực cho nhóm tướng trẻ ( Young Turks) với hy vọng người
hùng sẽ xuất hiện hầu đáp ứng nhu cầu chiến tranh mà họ hăm hở tiến
hành. Chính phủ Phan Huy Quát chỉ là giải pháp tạm thời nhằm vỗ yên Phật
giáo.
Ngày 17.2.1965 Hội đồng Quân lực quyết
định thành lập Hội đồng Quốc gia lập pháp với 20 đại biểu đại diện tôn
giáo và quân đội. Tướng Phạm Xuân Chiểu được cử làm Chủ tịch Hội đồng.
Ngày 3.3.1965, Hội đồng Quân lực công bố
tên tuổi và các chức danh lãnh đaọ:
Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu: tổng thư
ký.
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ: ủy viên
ngoại giao.
Thiếu tướng Linh Quang Viên: ủy viên
chính trị.
Thiếu tướng Phạm Văn Đổng: ủy viên an
ninh.
Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao: phụ tá tổng
thư ký.
Ngày 8.3.1965, 3 tiểu đoàn thủy quân lục
chiến Mỹ đỗ bộ Đà Nẵng.
Ngày 23.3.1965, Hội đồng Quốc gia Lập
pháp tuyên bố tán thành việc Mỹ đỗ quân. Chính phủ Phan Huy Quát, một
mặt hoan hỉ chào mừng quân Mỹ và quyết định đẩy mạnh chiến tranh của
tổng thống Johnson; một mặt cùng với Phật giáo ráo riết xây dựng chế độ
dân chủ với lộ trình: tổ chức bầu cử các Hội đồng tỉnh và thành phố làm
bước khởi đầu cho cuộc bầu cử quốc hội dự định tổ chức vào cuối năm.
Phật giáo miền Trung, một mặt dị ứng
trước sự đỗ quân ngang ngược của Mỹ, một mặt kỳ vọng vào sự liên kết với
Phan Huy Quát xây dựng chế độ dân chủ đại nghị nhằm phục hồi quyền tự
quyết dân tộc, tạo điều kiện cho Mỹ giải kết trong danh dự…
Hoàng Văn Giàu
(Hoàng Nguyên Nhuận), nguyên là một lãnh tụ Sinh viên phật tử, giáo chức
tại đại học Huế, đệ tử và cũng là tham mưu của nhà sư Thích Thiện Minh,
sẽ làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa Phật giáo và chính phủ Phan Huy
Quát, cùng mục tiêu và phương lược đấu tranh của phong trào Phật giáo
miền Trung trong thời đoạn Phan Huy Quát làm thủ tướng(16.2
à
12.6.1964):
“Lần này chúng tôi không phó mặc cho các bậc cao niên nữa. Chúng tôi
trực tiếp đón Thủ Tướng Phan Huy Quát về Huế bằng cuộc biểu tình vĩ đại
và yêu cầu ông mấy điều. Thứ nhất, làm bất cứ điều gì có thể làm để chấm
dứt chiến tranh; thứ hai tái lập Hiến Pháp và Quốc Hội để ngăn chận cái
tệ nạn làm chính trị bằng súng đạn như hai năm qua. Chúng tôi hứa là sẽ
ủng hộ ông trong chức vụ Thủ Tướng cũng như nếu ông có quyết định ra ứng
cử Tổng Thống sau nầy”.
“ Thủ Tướng Quát định triệu tập quốc hội
lập hiến dưới danh nghĩa Quốc dân đại hội đặt nền tảng cho một chính
quyền dân sự dân chủ. Nhưng ông đã gặp ba trở lực chí tử. Thứ nhất, đa
số chính quyền Hoa Kỳ ở Washington cũng như Sài Gòn đều tin vào chiến
thắng quân sự nên họ không hài lòng vì thấy ông không hăng hái leo thang
chiến tranh. Thứ hai, đa số tướng lãnh người Việt chỉ thích quyền lực dù
phải bán linh hồn cho Mỹ và sợ rằng Thủ Tướng Quát muốn loại ảnh hưởng
chính trị của họ. Thứ ba, thành phần chủ lực của chế độ cũ cho là ông
quá thân Phật giáo và sau hai năm yên bụng vì thấy thiên hạ đã phần nào
bỏ qua chuyện “chế độ cũ”, nhưng thành phần nầy đã bám vào thế lực chủ
chiến trong chính quyền Mỹ và các tướng lãnh Việt Nam để ngoi lên lại.
Trước những áp lực và phá hoại ngầm đó, Thủ Tướng Quát đã lùi một bước
hoãn bầu cử quốc hội lập hiến và chỉ bầu Hội Đồng Tỉnh Thị toàn quốc.
Chúng tôi đồng ý với Thủ tướng Quát là thực hiện việc bầu cử Hội Đồng
Tỉnh Thị toàn quốc làm bước đầu tiến lên Quốc Hội Lập Hiến. Đây là cuộc
tổng tuyển cử đầu tiên sau khi Ngô Đình Diệm đổ và là cuộc bầu cử tự do
duy nhất ở miền
Trong lúc chính phủ Phan Huy Quát tìm
được tiếng nói chung với Phật giáo miền Trung, thì đồng thời bị quốc
trưởng Phan Khắc Sửu và Khối Công giáo đấu tranh của các linh mục Hoàng
Quỳnh – Hồ Văn Vui chống đối
quyết liệt. Các tướng trẻ trong Hội đồng Quân lực chờ cho tình hình rối
loạn đến đỉnh điểm để đứng ra.
Ngày 26.5.1965, quốc trưởng Phan Khắc
Sửu và thủ tướng Phan Huy Quát bày tỏ công khai sự bất đồng quan điểm và
quyền hạn (theo Đỗ Mậu sđd).
Ngày 26. 5.1965, một phái đoàn của Lực
lượng Đại đoàn kết do linh mục Hoàng Quỳnh cầm đầu đến yết kiến quốc
trưởng Phan Khắc Sửu và Hội đồng Quốc gia Lập pháp đưa kiến nghị giải
tán chính phủ Phan Huy Quát vì lý do chính phủ này gây chia rẽ, chống
Cộng không hiệu lực và thân Pháp (theo Đỗ Mậu sđd tr 546).
Liên tiếp các ngày 4, 5, 7, 8 các lực
lượng Công giáo đấu tranh tổ chức rải truyền đơn, biểu tình bạo động, cử
phái đoàn đến dinh Gia Long đưa kiến nghị giải tán chính phủ Phan Huy
Quát. Tình hình ở Sài Gòn trở nên rối bời, phức tạp.
Ngày 11.6.1965, thủ tướng Phan Huy Quát
gởi thư cho Hội đồng Quân lực đề nghị quân đội đứng ra giải quyết cuộc
khủng hoảng. Hội đồng Quân lưc quyết định chấm dứt vai trò nhiệm vụ của
quốc trưởng, của Hội đồng Quốc gia Lập pháp, và của chính phủ Phan Huy
Quát.
Bác sĩ Phan Huy Quát là một chính khách
dân sự, lãnh tụ Đại Việt, trí thức được đào tạo và trưởng thành trong
nền giáo dục văn hóa Pháp, tuổi đã cao, lại say mê chế độ dân chủ, vướng
víu tình tự dân tộc và thân Phật giáo. Người Mỹ không cần một người như
thế trong cuộc chiến mà họ đang ráo riết dấn thân. Phan Huy Quát đã hoàn
thành nhiệm vụ vỗ yên Phật giáo trong chiến thuật của Mỹ. Bởi vì đại sứ |