TRẦN QUỐC HƯƠNG
Nguyễn Thị Ngọc Hải
8.
Hoạt động tình báo -
Trong kháng chiến chống Pháp, công tác tình báo chủ yếu phục vụ cho các
chiến dịch quân sự. Sau khi ký Hiệp định Genève, Bác Hồ và Trung ương
Đảng đã thấy trước sự can thiệp sâu của Mỹ nên chỉ đạo chuyển hướng hoạt
động tình báo ta sang hoạt động tình báo chiến lược.
Làm việc ở cơ quan kháng chiến Việt Bắc, đến năm 1948 ông Mười Hương
chuyển sang tình báo quân sự, tiền thân của ngành tình báo sau này được
thành lập vào năm 1951. Công việc lúc đó chủ yếu tổ chức lưới trinh sát
trong các trung đoàn, tổ chức điệp báo vào các thị trấn gây cơ sở. Ông
cũng đi trận mấy chiến dịch: Đường 10, Hà Nam Ninh, qua sông Đáy đánh
trận Ninh Bình, chiến dịch Trung du.
“Tôi thường nắm tình hình địch cho Ban chỉ huy các chiến dịch. Trận Điện
Biên Phủ tôi được phân công đi tả ngạn nắm tình hình địch rút quân vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Lúc đó, tôi giúp việc cho đồng chí Trần Hiệu, Cục
trưởng Cục 2 bấy giờ. Thời điểm này, anh Đỗ Mười đang làm Chính ủy Khu
Tả ngạn.
“Khi Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, nhiệm vụ đặt ra của tình báo
rất lớn. Chúng tôi chọn những tình báo như Vũ Ngọc Nhạ đi theo quân đội
Pháp vào Nam.
Tôi được cử vào Nam được vài tháng thì Ngô Đình Diệm cũng được đưa về
làm thủ tướng thay Bửu Lộc. Lúc đó, Ban nghiên cứu Xứ ủy có một bộ phận
lo bảo vệ an toàn cho cấp ủy và đồng chí Lê Duẩn, do anh Cao Đăng Chiếm
phụ trách. Tôi ở trong nhóm nắm tình hình của Mỹ và các tầng lớp khác.
Các cơ sở nội thành tôi nắm một phần, một phần do anh Năm Xuân (Đại
tướng Mai Chí Thọ) nắm. Tôi là một trong ba người có điều kiện ở Sài Gòn
không bị lộ. Anh Cao Đăng Chiếm trước là Giám đốc Công an ta ở Nam Bộ,
nhiều người biết mặt, do đó không được ở Sài Gòn, không được ra khỏi căn
cứ U Minh. Thỉnh thoảng anh Năm Xuân cũng vọt lên Sài Gòn họp nhưng cũng
rất hạn chế đi lại vì tình hình khá nguy hiểm. Tôi ở lại Sài Gòn, dù một
số đám di cư có thể biết nhưng tôi có giấy tờ giả bán hợp pháp. Chúng
tôi tự đánh giá: trước sau gì cũng bị bắt vì Diệm bắt đầu có chính sách
tố Cộng. Tình hình khó khăn, mặc dù quần chúng cơ bản là của mình. Anh
Năm Xuân, Bí thư Khu ủy miền Đông, cho biết trước anh ở đó có tới 23
ngàn đảng viên, sau về chỉ còn 800. Không có một chi bộ nào, chỉ liên
lạc đơn tuyến. Nhiều người bi quan. Có những câu quần chúng hỏi tôi
không trả lời được. Tôi nhớ có một bà má thắc mắc trước việc Diệm ra tay
đàn áp mà ta chưa có đối sách hành động. Bà bảo: “Tao thấy tụi Diệm
không ký, không tổng tuyển cử, sao tụi bây không làm gì? Tụi bây nhớ
nông dân trồng cây không ăn được là nhổ liền. Để Diệm ác thế như cái cây
bén rễ sâu, tụi bây làm sao mà nhổ được?”. Lúc đó phải đấu tranh lại
bằng bạo lực chứ không thể chỉ nói hòa bình.”
Ông Mười Hương là chỉ huy của những nhân vật tình báo nổi tiếng, những
tên tuổi sau này làm nên chiến công vang dội như Vũ Ngọc Nhạ (nguyên mẫu
của nhân vật Hai Long, cố vấn cho Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu
trong tiểu thuyết và phim Ông cố vấn của Hữu Mai); Lê Hữu Thúy -
đại tá, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (nguyên mẫu của nhân vật Lê
Nguyên Vũ trong tác phẩm Điệp viên giữa sa mạc lửa của Nhị Hồ);
Phạm Ngọc Thảo - đại tá, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (nguyên
mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết và phim Ván bài
lật ngửa của tác giả Trần Bạch Đằng) và Phạm Xuân Ẩn - thiếu tướng,
Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (nhân vật chính của cuốn Phạm
Xuân Ẩn - tên người như cuộc đời của Nguyễn Thị Ngọc Hải); cuốn
Một người Việt Nam thầm lặng của nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti;
cuốn Điệp viên hoàn hảo của giáo sư sử học Larry Berman.
Ông đã chỉ đạo lưới tình báo này. Ngày nay, ông đánh giá: Anh em dù ít,
tổ chức không rộng nhưng hoạt động rất có kết quả. Các chiến dịch Trương
Tấn Bửu, Thoại Ngọc Hầu giặc sục sạo vùng U Minh đều được thông báo sớm,
giúp anh em đưa anh Ba Duẩn từ Bến Tre lên Sài Gòn, rồi vọt lên biên
giới Cao Miên. Anh em cũng thu thập được nhiều thông tin tình báo chiến
lược và kịp thời gửi ra Trung ương xử lý. Hoạt động bí mật, có hai điều
chúng tôi đã giải quyết tốt: chức nghiệp hóa (có nghề nghiệp thật sự để
có tiền sinh sống) và xã hóa (xử sự đúng cương vị anh sống trong xã
hội). Chúng tôi nhìn lại thời kỳ đó, thấy những chuyển hướng chiến lược
của Mỹ về chiến tranh đã được chúng tôi báo cáo phục vụ Trung ương rất
tốt.
***
Là một chỉ huy đã từng làm việc với các nhân vật tình báo nổi tiếng như
thế trong chiến tranh nhưng khi được hỏi, ông trả lời chân thật: “Chỉ
huy là Trung ương Đảng, là cả một lực lượng cách mạng, tôi là người được
giao lại các đầu mối. Cái chính của tôi là cái anh chỉ trỏ, chỉ tay năm
ngón thôi. Còn các anh ấy giỏi nên lập được nhiều chiến công lớn, vô
cùng quan trọng cho cách mạng. Đành là phải lần theo sự “chỉ trỏ”, “chỉ
tay năm ngón” như lời ông nói để có thể phần nào hình dung ra công việc
của một trong những người xây dựng mạng lưới tình báo chiến lược trong
kháng chiến chống Mỹ.
Ông Mười Hương kể về suy nghĩ của mình khi dùng các nhà tình báo vào
đúng vai trò, nhiệm vụ như thế nào. Thí dụ như việc ông chỉ đạo nhà tình
báo Lê Hữu Thúy.
“Lúc kháng chiến chống Pháp, anh Thúy là cán bộ công an. Đến cải cách
ruộng đất, do gia đình thuộc tầng lớp trên nên anh bị đưa ra khỏi ngành.
Nhưng ở Nha Tình báo của ta, người lãnh đạo tài năng Trần Hiệu đã nhìn
thấy con người anh Thúy có nhiều phẩm chất xuất sắc. Ông Trần Hiệu móc
nối lại, tổ chức đưa anh Thúy đi Nam. Anh vào cùng đợt, làm việc với Vũ
Ngọc Nhạ. Sau này khi cấp trên giao anh Nhạ cho tôi cũng giao luôn cả
anh Thúy làm việc trực tiếp với tôi.”
Ông Mười Hương nhận thấy cái đặc điểm nổi trội của Lê Hữu Thúy: “Anh ấy
là cử nhân văn chương, quen nhiều quan chức cao cấp. Anh vào được lực
lượng Hòa Hảo. Ngô Đình Diệm đưa anh vào giống như một phái viên chính
phủ bên cạnh Hòa Hảo, làm việc với thứ trưởng Bộ Nội vụ của Diệm, công
cán ủy viên Huỳnh Văn Nhiệm. Khi xảy ra nhiều vụ lộn xộn giữa các giáo
phái, chúng tôi nói anh vào với Bình Xuyên. Đám Bảy Viễn dùng anh liên
lạc với Phòng Nhì Pháp để xin tiền vì Bảy Viễn dựa vào tiền của Pháp để
chống Diệm.
Có hôm Thúy nói với tôi: “Phòng Nhì Pháp xui tôi về lực lượng Hòa Hảo
bắn vài quả đạn vào Sài Gòn làm áp lực với Diệm”. Tôi bàn với Thúy: “Cậu
về nói lại cho Năm Lửa biết chuyện đó đi. Cho họ biết là Pháp chỉ muốn
lợi dụng họ chứ không giúp họ lật Diệm”. Tôi bàn với anh Thúy xem liệu
có lôi kéo được lực lượng cho cách mạng không. Anh Thúy nhận xét rất xác
đáng: “Không được đâu. Họ vì tiền mà làm. Tiền thì mình không thể nhiều
như đế quốc được. Lộ ra thì người của Phòng Nhì Pháp giết tôi ngay lập
tức”. Tôi gợi ý: “Anh dụ nó đưa quân về Đồng Tháp, để Diệm đánh tan nó ở
Đồng Tháp. Địa phương chúng ta sẽ lợi dụng tình thế đó phất cờ vũ trang,
diệt bớt ác ôn, phong trào sẽ lên”..
Nằm sâu trong hậu trường sân khấu chính trị miền Nam, tình báo viên
chiến lược Lê Hữu Thúy - với tên hoạt động Lê Nguyên Vũ, đã sáng tạo,
thận trọng thực hiện chính xác từng kế hoạch tinh vi củng cố được lòng
tin của Diệm - Nhu. Vai trò phụ tá cho tổng trưởng Nội vụ Huỳnh Văn
Nhiệm, cho giám đốc Sở nghiên cứu chính trị - mật vụ Trần Kim Tuyến, cho
giám đốc Nha An ninh quân đội Đỗ Mậu là vỏ bọc bằng thép giúp ông có thể
tìm hiểu cặn kẽ kẻ thù, khoét sâu vào các mâu thuẫn vốn có để phân hóa
và làm suy yếu từ bên trong lực lượng địch.
***
Ông đã “chỉ trỏ” cho nhà tình báo Lê Hữu Thúy xâm nhập vào lực lượng Hòa
Hảo như thế. Với ông Vũ Ngọc Nhạ, ông nói “Anh Nhạ phải bám cha Từ. “Các
bài viết về Vũ Ngọc Nhạ chưa giải thích rõ vì sao anh ấy được chỉ đạo
bám cha Lê Hữu Từ. Tôi nhớ vào khoảng năm 1946 thì phải, Bác Hồ yêu cầu
chuẩn bị cho Bác một chuyến đi quan trọng. Đích thân Bác đi gặp cha Lê
Hữu Từ, định mời về làm cố vấn cho Chính phủ. Tôi ngạc nhiên thưa với
Bác là trong Quốc hội lúc đó, đại biểu Công giáo là cha Phạm Bá Trực
rồi, ở các địa phương cũng có các linh mục trong Mặt trận rồi, sao bây
giờ Bác còn đích thân đi mời cha Lê Hữu Từ nữa. Lúc đó Bác mới giải
thích cho chúng tôi hiểu rằng thời kỳ ấy, ảnh hưởng của các dòng tu đều
khác nhau. Dòng Châu Sơn ở Nho Quan của cha Từ là dòng “khổ hạnh”, có uy
tín lớn lúc đó, được bên Tòa Thánh trân trọng nhất nên cũng cần mời họ
giúp cho Chính phủ. Ông Mười Hương nhớ mãi lời Bác Hồ: “Là người Việt
Nam ai cũng có lòng yêu nước. Như năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn,
lòng yêu nước thể hiện nhiều hay ít thôi. Nếu ta biết cách, sẽ thu phục
được.”
“Tôi biết Vũ Ngọc Nhạ lúc chuẩn bị vào chiến
dịch Điện Biên Phủ. Khi đó, ai cũng náo nức muốn tham gia chiến dịch
lịch sử này. Nhưng tôi không được tham dự mà lại được phân công đi xuống
Khu Tả ngạn. Nhiệm vụ của chuyến đi này là tôi phải chọn cán bộ để gài
theo những người di cư vào Nam. Tôi đã chọn được hai anh cán bộ của Thị
ủy Thái Bình là Nhạ và Ruật.”
Khi chuẩn bị vào Nam hoạt động, Vũ Ngọc Nhạ có giấy chứng nhận do cha
Hoàng Quỳnh cấp, chứng nhận Nhạ là trung úy tự vệ của Phát Diệm trong
lực lượng Công giáo. Như vậy, tôi nghĩ Nhạ phải tận dụng mối quan hệ này
bám cha Quỳnh để qua đó quen thân được với cha Lê Hữu Từ. Cha Từ rất
thân với cha Quỳnh. Anh cứ bám cha Quỳnh. Ông Quỳnh vào đây cũng có hụt
hẫng. Xa giáo xứ, con chiên Phát Diệm rất khổ. Anh hãy làm một con chiên
ngoan, chăm sóc cha Quỳnh lúc thường, lúc ốm đau, đưa cả con cái tới
thăm ông ta để tạo quan hệ gia đình gần gụi. Tranh thủ được tình cảm ông
Quỳnh rồi sẽ tìm được mối quan hệ với giám mục Từ. Chính mối quan hệ này
cho phép anh Nhạ lập được nhiều chiến công sau này, có lần thoát chết
được.” Ông cùng với Vũ Ngọc Nhạ trao đổi, cứ nói là Ngô Đình Diệm thân
Mỹ, Mỹ nắm được Công giáo, nhưng không phải. Công giáo Việt Nam lúc ấy
vẫn là Pháp nắm. Mỹ bỏ nhiều tiền ra nên có ảnh hưởng lớn. Kết quả cuộc
trao đổi này là một nhận định quan trọng: Ngô Đình Diệm muốn nắm nhưng
chưa nắm được các dòng tu Công giáo thân Pháp như dòng của Lê Hữu Từ.
Chính đó là chỗ Nhạ có thể phát huy được.
“Qua các tin tức của Nhạ, tôi thấy lúc đó có một mâu thuẫn: Diệm rất cần
ông Từ nhưng chưa nắm được. Một hôm, Nhạ bảo tôi: Cha Từ than phiền là
Tổng thống tin Mỹ quá. Tôi liền nói ngay với Nhạ: Đây là hơi hướng Pháp
chê hơi hướng Mỹ của Ngô Đình Diệm đấy. Nếu Ngô Đình Diệm muốn dựa vào
Công giáo mà không dựa được vào cha Từ là hở. Tôi bảo Nhạ: “Làm thế nào
anh nói đến tai Ngô Đình Diệm ý này: nếu không liên kết được với cha Từ
sẽ khó khăn”. Phải biết rằng ông Diệm rất cần ông. Từ mà không nắm được,
vì một anh thân Mỹ, còn một anh thì thân Pháp.” Khi Vũ Ngọc Nhạ bị bắt
và chuyển về Tòa Khâm thì ông Mười Hương đã bị chuyển sang phòng tối
cách đó 200 mét, đằng sau Nha Cảnh sát Trung Việt. Ông quan sát, tìm
hiểu, và biết chắc chắn rằng ông Nhạ dù được đi lễ nhà thờ nhưng tinh
thần vẫn còn. Ngô Đình Cẩn là người khá đặc biệt. Trong số tù nhân, nếu
ai theo Công giáo thì Chủ nhật Cẩn cho đi lễ. Ông Mười Hương tìm cách bí
mật liên lạc, nhắn ông Nhạ giữ nguyên vỏ bọc, cứ hướng cũ mà đi thôi:
“Cái áo rách, nhưng vá lại vẫn dùng được”. Vũ Ngọc Nhạ đã thành công khi
liên lạc với cha xứ và tự tiếp cận Ngô Đình Cẩn. Ông Nhạ nhờ cha Hồng
chuyển thư cho linh mục Lê Hữu Từ, trong thư viết bằng giọng mập mờ như
đã quen biết. Cha Từ thấy ông Nhạ là người Công giáo Phát Diệm, tìm hiểu
về ông qua cha Quỳnh, rồi ra Huế thăm dò. Cha Từ dùng ông Nhạ tác động
lại Cẩn, bắt tay Nhu - Diệm. Ngô Đình Cẩn thì dùng ông Nhạ để kết thân
cha Từ. Và từ đó, mối quan hệ của ông Vũ Ngọc Nhạ với gia đình họ Ngô
được nâng lên một bước cao hơn.
Ông Vũ Ngọc Nhạ đã giảng hòa được hai bên và lợi dụng được hai bên.
“Chính anh Nhạ làm được cái cầu nối giữa họ Ngô với cha Lê Hữu Từ. Từng
có lần anh Nhạ về gặp anh Năm Xuân, sau đây anh Năm Xuân nói với tôi:
“Tôi thấy anh này ăn nói giống linh mục”. Tôi bảo: “Anh ấy đóng linh mục
mà không ăn nói giống linh mục thì sao được ông?”. Người tình báo nhập
vai giỏi quá thành ra vậy.”
Biết quan sát thực tế, ông Mười Hương thấy rõ chính quyền Diệm - Nhu đối
xử phân biệt với hai xứ Công giáo Bùi Chu, Phát Diệm. Ở xứ Bùi Chu của
giám mục Phạm Ngọc Chi được chăm lo hơn địa phận Phát Diệm của giám mục
Lê Hữu Từ. Những trao đổi, phân tích của ông cùng với nhà tình báo đã
giúp cho đường hướng công việc tiến triển tốt như chúng ta đã biết qua
hoạt động cố vấn của Vũ Ngọc Nhạ. Thời gian ông Nhạ ở Tòa Khâm, thật là
trong cái rủi lại có cái may, là thời gian ông hoạt động thành công
nhất.
Sắc sảo, nhạy cảm, sáng suốt, có thể nói như thế về vai trò “chỉ trỏ”
của ông Mười Hương. Không phải vô cớ mà thế giới đánh giá cao những
người tình báo ở tù rồi mà vẫn phát huy được tác dụng.
***
Còn công việc với nhà tình báo Pham Xuân Ẩn thì điều chủ yếu thành công
là ở một cách nhìn, đánh giá tình hình. “Lúc tôi vào Nam, anh Ẩn đang
làm thư ký nhà đoan, đưa tin tức tình báo về việc quân Pháp vận chuyển
vũ khí. Anh báo ra những tin tức tàu đến tàu đi, chở hàng hóa, vũ khí ra
các miền”. Anh Ẩn rất giỏi tiếng Anh, sau đó làm ở cơ quan MACV (Cơ quan
viện trợ Mỹ). Lúc Hiệp định Genève, Mỹ đang thay chân Pháp. Ngay lúc đó,
nhà chỉ huy Mười Hương nhạy bén nhận thấy: nếu anh Ẩn cứ đi theo con
đường này, giỏi lắm leo lên đến đại tá, không phải chỗ ngon ăn. Tụi này
là cơ quan chính trị, nó mà thanh trừng lẫn nhau, dễ chết lây sang Ẩn.
Đối tượng của cách mạng Việt Nam sẽ là Mỹ. “Khi anh Ẩn đưa tôi tới nhà
đám sĩ quan Mỹ mà Ẩn quen, tôi thấy đám Mỹ này thích Ẩn lắm. Tôi bèn bàn
với Ẩn: Phải chuyển thôi. Phải làm nghề tự do. Tôi nhớ ngày xưa Cụ Hồ đi
hoạt động cũng làm tân văn ký giả. Bác xưa vẫn khuyên đám cán bộ chúng
tôi hoạt động thời Pháp phải chú ý tới “báo chí để tứ quyền. Đụng tới,
họ la to lắm”. Tôi nghĩ Ẩn phải đi học báo chí tại Mỹ, về viết báo Mỹ
hẳn hoi chứ không phải chỉ về làm báo lá cải kiểu Tiếng Chuông
cũng không ra gì. Anh phải hiểu rõ văn hóa Mỹ, học được những cái hay
của văn hóa Mỹ, thấy rõ tính cách con người Mỹ để có thể nghĩ và viết
như người Mỹ. Cho nên suốt cuộc đời hoạt động của Ẩn sau này, cách ứng
xử của anh ấy tôi ưng lắm. Kết hợp văn minh hiểu biết với nhân văn, văn
hóa Việt Nam mới ra được con người như Ẩn.”
“Khi các cán bộ lãnh đạo vào Nam năm 1948, có
đồng chí Vũ là trung tá và anh Tư Tùng thiếu tá. Họ vào cùng anh Lê Đức
Thọ. Sau này, khi đã tiếp xúc với Ẩn, tôi bàn với anh Tư Tùng. Anh rất
có công trong việc xây dựng lưới. Anh ấy còn được bà cụ mẹ của Ẩn nhận
làm con nuôi.” Họ bàn bạc, trao đổi, xin ý kiến lãnh đạo của Trung ương
và thế là phương án đi học của tình báo Phạm Xuân Ẩn được hình thành.
“Anh Tư Tùng lúc đó làm chủ sở cao su nhỏ, rất tháo vát. Anh đóng góp
thêm tiền giúp vào cho Ẩn có thể đi du học.” Nhớ lại chuyện này, ông
Mười Hương nhắc đến bà cụ thân sinh ra Phạm Xuân Ẩn với bao nhiêu lời
quý trọng. “Công bà già lớn lắm. Ẩn hoàn thành nhiệm vụ cũng do công bà
mẹ đóng góp nhiều. Bà không nói năng, lẳng lặng nuôi con, chăm lo cho
con với tình người mẹ thương con và yêu nước.”
Chính khi ông Phạm Xuân Ẩn đang học ở Mỹ thì hầu như toàn bộ tổ chức
trong nước bị chế độ Diệm đánh, phá vỡ hàng loạt. Ông Mười Hương bị bắt
và số phận chàng sinh viên Ẩn kể như cá nằm trên thớt. Ông Tư Tùng, tức
Dương Minh Sơn và cậu em trai của Ẩn cũng bị bắt. Nhưng ông Mười Hương
đã chịu đựng sự khốc liệt này, giữ nguyên được tổ chức. Sau này ông Ẩn
kể lại: “Ông Mười thường quan tâm dặn tôi hai việc: thứ nhất, nhấn mạnh
lập trường tư tưởng, chính trị, hiểu biết văn hóa; thứ hai là nghiệp vụ
vững. Ông bảo: phải đi học, tìm hiểu văn hóa Mỹ. Phải học văn hóa”.
Sau khi thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn qua đời vào năm 2006, ông Mười
Hương được đoàn làm phim tài liệu phỏng vấn về những suy nghĩ của ông
với nhà tình báo “điệp viên hoàn hảo”. Nhớ lại ngày Phạm Xuân Ẩn chuẩn
bị được đưa đi học báo chí ở Mỹ, ông Mười Hương bảo: “Ẩn lúc đó chưa có
bằng tú tài. Tôi gợi ý Ẩn xem bên đó có loại trường nào nó không đòi
bằng tú tài. Và nhắc Ẩn: chỉ có học làm báo thôi!
Tôi phân tích: Ở trong nước Ẩn cũng đang hoạt động mở quan hệ có nhiều
triển vọng. Nhưng lúc bàn bạc với nhau như anh em trong nhà, tôi bảo Ẩn:
Mày đã thân được đến như Phạm Xuân Giao ở Phòng 6, thân với Nguyễn Văn
Hinh thì giả dụ có thương quý lắm cũng đưa mày giỏi lắm lên đến chuẩn
tướng, cũng là đi hầu nó thôi em ạ. Phải làm gì đó mà vừa quen thân vừa
nghe ngóng từ giới cu li bên ngoài cho đến bên trên là thủ tướng, thì
chỉ có làm anh nhà báo thôi. Mà Ẩn lúc đó có cả tiếng Anh tiếng Pháp.”
Hai anh em trò chuyện, phân tích với nhau. Ông Mười Hương bảo Ẩn (vì là
anh lớn tuổi hơn nên ông hay xưng hô thân mật như gọi đứa em):
- Mày thấy “ông” Hồ ra nước ngoài sống bằng nghề ký giả tân văn mà làm
cách mạng.
Trước đó, Edward Lansdale muốn cử Phạm Xuân Ẩn đi học tình báo và tâm lý
chiến. Khi việc này được báo cáo với ông Mười Hương, lúc đó đang là chỉ
huy trực tiếp của Phạm Xuân Ẩn, đã bị ông Mười Hương khuyên không nên vì
quá nguy hiểm. Ông Mười Hương rất tâm đắc việc Ẩn nên đi học báo chí.
Nhưng lúc đó ba của ông Ẩn ốm nặng. Sau này chúng ta biết việc của ông
Ẩn đi học ở Mỹ đã phải lùi ngày lên máy bay, vì vào đúng ngày đó, ba Ẩn
qua đời - ngày 24/9/1957.
Trước đó, Phạm Xuân Ẩn cứ nghĩ rằng việc anh đi học ở Mỹ sẽ không thành.
Giấy tờ của chính quyền quan liêu là một chuyện, còn chuyện cha đang ốm
nặng. Ông Mười Hương phải tìm cách động viên và giúp đỡ chăm sóc gia
đình thay Ẩn là người con trưởng đang chịu tang cha. Ông Mười Hương đã
đến nói chuyện với mẹ của Ẩn. Bà cụ hoàn toàn ủng hộ con mình.
Ông Mười dặn dò: Mày sang đó tìm hiểu cái xứ văn minh ấy, chứ không chỉ
“chửi nó bóc lột” như lý thuyết được học. Văn hóa Mỹ nhiều cái hay lắm,
chính Cụ Hồ tìm hiểu và dùng cái văn hóa đó để phục vụ việc làm cách
mạng. Văn hóa tư bản tôn trọng cá nhân, mày học kỹ, đó cũng là thứ nó sẽ
bảo vệ mày. Như vậy là chính Mỹ dạy mày làm tình báo cho cách mạng đó
(hai anh em cùng cười).
Ông Mười nghĩ: Công tác tình báo giống như vở kịch. Người lãnh đạo nghĩ
ra mục tiêu còn thành công là do người tình báo sáng tạo và can đảm.
“Khi người ta giao Phạm Ngọc Thảo cho tôi có khuyên rằng nên khai thác,
dựa vào việc Thảo thân Pháp, dân Công giáo. Tôi bảo: Không nên coi Thảo
như người theo kháng chiến rồi về đầu hàng. Bởi Ngô Đình Diệm cần người
yêu nước, quốc gia không Cộng sản, chứ không cần người kém cỏi đầu hàng.
Phải nhận thức được Ngô Đình Diệm có tinh thần “quốc gia dân tộc” mới
được. Chính tôi đã gửi nhận định này ra cho Trung ương, không nên coi
Ngô Đình Diệm như mấy ông bơ sữa bợ Tây như Tâm, Hữu. Hai bức điện của
tôi gửi ra được vận dụng mục tiêu đúng cho tình báo hoạt động”.
Ông đeo đuổi việc quyết tâm đưa Phạm Xuân Ẩn đi Mỹ học về báo chí. “Nó
đi bằng hai chân của nó”. Ông đã tranh luận như vậy với một số lãnh đạo
lúc đó theo lối cổ điển thường nắm con người bằng cách ràng buộc người
cán bộ, kiếm cho họ một người vợ theo ý của tổ chức. Ông không chịu lối
nắm con người bằng thủ đoạn, tiền bạc. Phải tôn trọng sự độc lập suy
nghĩ của người cán bộ. Chưa một ai dưới quyền lại bị ông sử dụng theo
lối thủ đoạn, tiền bạc.
Sau này khi gặp nhau, ôn lại cái giai đoạn Phạm Xuân Ẩn ở Mỹ nghe tình
hình trong nước bị khủng bố bắt bớ, cả em trai của Ẩn và Mười Hương cũng
đã bị bắt. Lúc đó chính quyền Ngô Đình Diệm đang truy lùng gắt gao để
diệt Cộng sản. Cái tin em trai và ông Mười bị bắt đã khiến Phạm Xuân Ẩn
lo sẽ bị lộ. Anh sợ mọi người không chịu được đòn tra khảo tàn bạo, sẽ
khai ra anh. Nhất là ông Mười Hương, người chỉ huy trực tiếp của anh. Ẩn
đã phải để phòng bằng cách học thêm tiếng Tây Ban Nha. Anh nghĩ khi cần
thiết, có thể sẽ chạy trốn sang Cuba hoặc Nam Mỹ. Anh hoàn toàn độc lập
ở xứ người, không còn liên lạc, xin ý kiến của ai. Tin tức chỉ nhận được
qua lá thư của người em trai viết bóng gió để anh suy luận mà hiểu tình
hình.
Sau hai năm học tập, vào năm 1959 khi trở về nước, Phạm Xuân Ẩn vẫn còn
phải đề phòng. Anh sợ vừa xuống sân bay đã bị bắt cóc đưa đi thủ tiêu mà
không ai biết. Lúc này anh cũng không biết tin tức gì của ông Mười Hương
đang bị giam ở Huế. Anh phải dặn cả gia đình ra đón mình ở sân bay, cho
dù có thể mẹ anh sẽ phải chứng kiến cảnh đau lòng con trai bị bắt. Nhưng
như vậy còn hơn là bặt vô âm tín. Đến khi về nhà rồi, anh cũng không dám
đi đâu một mình ra đường. “Nghe tin anh bị bắt, em vẫn có một linh tính
là mình được an toàn. Dù sao thì cũng phải đề phòng. Trong tay em đã có
vé máy bay đi Cuba và Pháp. Bởi em tin, hai nơi đó mới có đường liên lạc
với tổ chức. Em cũng nhắn gia đình ra đón nên mời cả bạn bè Mỹ, cánh nhà
báo, nếu có gì họ sẽ đưa tin.”
Phạm Xuân Ẩn có lúc đã tâm sự: “Anh làm lãnh đạo chỉ huy, chứ người
khác, chắc em không dám trở về”. Với gia đình Phạm Xuân Ẩn, cái tên Mười
Hương được tin yêu. “Em thấy cũng lạ. Mẹ em lúc sắp mất, quên cả tên em
Định. Vậy mà bà nhớ tên em và anh. Có lần, khi đất nước giải phóng, bà
hỏi: “Anh Hai có ở trong hay không? Em bảo anh dù ở đâu cũng biết chuyện
thôi mẹ ạ”. Còn ông Mười thì bảo: Tôi chỉ thuyết phục bà mẹ bằng sự ăn ở
của tôi thôi.
Có lẽ câu chuyện hoạt động của ông Mười Hương khi được giao chịu trách
nhiệm với các nhà tình báo sau này nhìn lại thấy toàn tên tuổi huyền
thoại - chắc còn nhiều điều chúng ta không được biết hết. Nhưng có thể
chắp nối từ những câu chuyện gián đoạn không hệ thống bất chợt ông kể ra
khi đang trình bày một vấn đề khác.
Như một người con trong gia đình, ông Mười Hương có quan hệ quen biết cả
lứa bạn cùng học với cha của Phạm Xuân Ẩn ở trường lục bộ xưa ngoài Hà
Nội. “Ông già Ẩn là một kỹ sư đạc điền. Ông có người bạn tên Quyến là
một người được trọng như sếp, trưởng tràng. Chính ông Quyến là người sắp
xếp đám tang cho cha của Phạm Xuân Ẩn. Còn ông Quyến cũng học giỏi lắm.
Gốc Nho học, đi Tây học tiếp nên học rất giỏi. Xưa có những gia đình trí
thức lớn lắm, thân nhau lắm.”
Năm 2006, sau khi thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn qua đời, hãng phim TFS của
HTV (Đài truyền hình Tp. Hồ Chí Minh) có thực hiện bộ phim tài liệu 12
tập về ông. Nữ đạo diễn Lê Phong Lan có tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn
ông Mười Hương về Phạm Xuân Ẩn.
Câu hỏi thứ nhất: Ông nhận định con người Phạm Xuân Ẩn thế nào để giao
nhiệm vụ sang Mỹ học?
Ông Mười Hương: Khi tôi vào miền Nam, ông Phạm Ngọc Thạch giới thiệu, có
một thanh niên trưởng thành từ phong trào trò Ơn thời chống Pháp. Cậu ấy
đã được giao theo dõi biến động quân đội ở Đông Dương khi cậu làm thư ký
nhà đoan ở cảng. Trước đó, tôi lại nghe một cán bộ kể chuyện về Ẩn.
Người cán bộ này bảo: Cậu thanh niên này hăng hái, tính nóng. Có người
mẹ nuôi, chồng bà này đối xử với vợ ra sao làm nó giận quá, túm cổ áo
ông ta nói: Ba không thể làm thế với mẹ được! Tôi tìm đến nhà gặp Ẩn.
Thấy đó là một thanh niên rất thông minh, nhanh trí, ăn nói dí dỏm. Tôi
liên hệ ý nghĩ: Bác Hồ là nhà tình báo giỏi, đơn thương độc mã tìm đường
cứu nước, cũng là một nhà báo giỏi. Phải đưa Ẩn đi làm báo, vì như tôi
đã nói với Ẩn: Đi theo Phạm Xuân Giai ở phòng 6 cũng giỏi lắm lên được
chuẩn tướng làm tay sai. Không thể đi nghe ngóng biết được các vấn đề
chiến lược. Mày phải đi học. Không đi Pháp, mà đi Mỹ đi. Về hỏi đám bạn
Mỹ để tìm hiểu chuyện học. Mỹ là thằng khó khăn nhất. Ẩn có tham khảo
đại úy Mỹ Philip lúc đó nhà ở đường Trần Quốc Toản. Ẩn có dẫn tôi lại
nhà Philip chơi một lần. Tôi thấy Philip khen phục văn hóa Việt Nam,
người già được con cái thương kính chăm sóc. Con cái rất thương yêu cha
mẹ ông bà, nuôi cha nuôi mẹ. Nếu có khổ thì chỉ vì “nghèo nên khổ thôi,
còn tình cảm đỡ cô độc hơn so với phương Tây. Philip khuyên vợ phải cố
gắng học văn hóa Việt Nam. Tôi bảo Ấn hỏi xem mọi thủ tục. Lúc đó có
người cháu của má Ẩn vào làm cơ sở kinh tế cho cách mạng, trong đồn điền
cao su Lộc Ninh. Từ đó mới góp thêm kinh phí giúp Ẩn di học được. Má của
Ẩn lo vụ này rất tích cực. Cũng chỉ phải lo tiền máy bay, vì sang đó có
học bổng rồi.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai của đạo diễn Phong Lan: “Thời kỳ chú bị
bắt, chú có sợ bị bọn địch tìm cách bắt chú khai ra Phạm Xuân Ẩn?”. Ông
Mười Hương trả lời: “Điều đó tôi đã hiểu rõ từ lâu. Tôi thường nói với
Ẩn: Có ba thử thách lớn với người cách mạng: Ở tù, tiền bạc, tình. Thời
kỳ ở tù, tôi hay mắc cỡ nếu nghĩ mình khai ra một người nào. Tôi bị bắt
không dính đến Ẩn. Cậu Định, em Ẩn bị bắt trước cả tôi. Hai vụ không
dính nhau. Tôi rất tin tưởng Ẩn. Cái này tự nhiên, bằng linh cảm, khó
giải thích. Ẩn bộc lộ con người đáng tin cậy, luôn trung thực, luôn giúp
đỡ. Khi tôi ở tù, mọi người biết được tình hình của tôi là do Ẩn có
người chú làm ở Nha Cảnh sát Trung phần. Ông hay qua chỗ tôi bị giam và
biết được, đám lính gác nể tôi lắm. Chắc ông chú này nắm được tình hình,
báo ra cho gia đình Ẩn.
Câu hỏi thứ ba: “Chú và chú Ẩn sống sót qua cuộc chiến khốc liệt đầy
nguy hiểm, tình anh em đồng chí có ý nghĩa đặc biệt như thế nào?”.
Ông Mười Hương ngẫm nghĩ, chậm rãi không trả lời ngay. Đó là phản xạ suy
nghĩ chậm của người già hay vì còn lý do nào khác? Ông ngậm ngùi: “Nhiều
lúc thấy thương Ẩn quá. Không ai hiểu Mỹ bằng Ẩn. Công trạng được tuyên
dương nhưng không phải đã được hiểu hết. Sau giải phóng tôi có hỏi đại
tướng Văn Tiến Dũng, sao không để Ẩn phát huy tiếp. Tướng Dũng bảo: Một
cán bộ làm địch hậu hơn 20 năm rồi, chịu bao khó khăn hy sinh. Nay lại
bắt hy sinh tiếp, đứng về chính sách thế là không ổn. Tôi gặp Ẩn, có ý
tiếc việc Ẩn không tiếp tục, thì Ấn bảo, công việc anh ấy vẫn say mê
nhưng cấp trên đã có quyết định thế rồi, em kêu vợ con trở về.
Tôi luôn tự hào về Ẩn, và cũng tự hào về việc mình đã nhận định, đánh
giá, dùng Ẩn đúng vị trí. Dù rằng tôi chỉ là anh đạo diễn thôi, tài cán
là do điệp viên làm. Tôi “dựng kịch” đường lối hoạt động cho Ẩn đúng như
với Nhạ, Thảo, Thúy. Họ giỏi nên đã làm cho kịch bản thành công.”
“Vì sao Ẩn thương và tin tôi ư? Làm việc với nhau, thấy được con người
thì thương thôi. Những điều tôi bàn bạc, phân tích cùng Ẩn, ra đời Ẩn
thấy đúng nên thương thôi. Còn tôi đánh giá Ẩn ư? Một con người sáng
suốt và trung thực. Tôi đánh giá Ẩn là một tình báo hơn cả nhà tình báo
vĩ đại của Nga: Richard Sorge. Ông ta có công phát hiện đúng tình hình
kẻ thù tấn công Tổ quốc như thế nào, không tập trung quân ở biên giới
phía Đông, để Stalin tập trung giải quyết mặt trận với Đức, rồi mới quay
lại Á Đông. Nhưng Ẩn còn vĩ đại hơn, vì hoàn thành nhiệm vụ mà giữ được
an toàn, bí mật từ đầu tới cuối.
Tình cảm tôi tin cậy Ẩn còn coi như... duyên số. Cũng giống như ngày đầu
cách mạng, tại sao lãnh đạo lại tin tôi, một cán bộ trẻ, giao cho những
việc quan trọng nhất. Giao cả tính mạng của lãnh đạo, để tôi đưa anh
Trường Chinh đi gặp tụi nhà binh Pháp ngay trước Sở Mật thám. Có lần tôi
hỏi anh Trường Chinh. Anh bảo: Tin là tin. Có cả yếu tố linh cảm, trực
cảm.”
***
Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo chiến lược dưới sự chỉ huy của Ban địch
tình Xứ ủy Nam Bộ mà trực tiếp là dưới sự chỉ đạo của ông Mười Hương.
Ngay những ngày đầu xâm nhập vào lòng địch, ông Mười Hương đã “chỉ trỏ”
cho nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo như thế nào? Với nhà tình báo Phạm Ngọc
Thảo, ông Mười Hương giải thích thêm: nguyên tắc của Trung ương lúc đó
rất chặt chẽ cho việc sử dụng tình báo. Dùng cán bộ cấp nào phải được
cấp ủy nào đồng ý, không thể dễ dãi tùy tiện dược. Trường hợp nhà tình
báo Phạm Ngọc Thảo do chính đồng chí Lê Duẩn phụ trách Trung ương Cục
lúc đó cho phép và giới thiệu. Trường hợp nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn do
đồng chí Phạm Ngọc Thạch trực tiếp giao nhiệm vụ.
“Anh Phạm Ngọc Thảo lúc đó đã có một lý lịch kháng chiến nhiều người
biết. Anh ấy đã làm đến chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 10. Ai lại không
biết. Anh ấy còn làm Trưởng ban Quân báo Nam Bộ.
Mặt khác, anh Thảo lại là con của một gia đình trí thức Công giáo rất
lớn. Cả nhà đều là dân Tây. Pháp rất nể trọng gia đình này, tin dùng
ngang cỡ gia đình Nguyễn Văn Xuân, Pétrus Ký - những gia đình dòng họ
trí thức lớn làm việc với Pháp. Vợ của Phạm Ngọc Thảo là em cụ Phạm
Thiều, cũng là một trí thức Nam Bộ. Khi quân ta đi tập kết sau Hiệp định
Genève, anh ấy ở lại. Đồng chí Lê Duẩn có ý định dùng lợi thế của Thảo,
giới thiệu với anh Năm Xuân. Lúc đó, tôi, anh Năm Xuân và Cao Đăng Chiếm
là ba người của Ban Địch tình Xứ ủy (tiền thân của Ban An ninh miền
Nam). Anh Năm Xuân lúc đó là phó ban nhưng anh không thể về Sài Gòn
nhiều vì hoạt động lẫy lừng, cũng vì đã quá nhiều người biết, cán bộ
miền Tây cũng như miền Đông. Phong trào lúc này khó khăn nên dễ đụng bọn
người xấu lắm. Anh Chiếm cũng vậy, Đảng không cho phép sống ở Sài Gòn,
dễ bị địch bắt. Anh Năm Xuân đành đi về theo kiểu con thoi. Anh giao nhà
tình báo Phạm Ngọc Thảo cho tôi liên hệ vì tôi có điều kiện ở hợp pháp
tại Sài Gòn. Tôi với danh nghĩa thầy giáo dạy kèm có thể đi lại tự do
hơn.”
Ngày nhận nhiệm vụ, ông Mười Hương đến gặp Phạm Ngọc Thảo và họ thảo
luận đường lối hoạt động. Riêng việc này cũng phải bàn luận, cân nhắc
hết cả một buổi sáng. Ông Mười Hương phân tích: “Không thể để Phạm Ngọc
Thảo giấu đi cái lý lịch kháng chiến của anh ấy được. Phải công khai
điều đó, vậy thì lý do gì anh ta bây giờ làm việc với đối phương, từ bỏ
cái lý lịch kia?”. Im lặng một lát rồi ông Mười tiếp tục:
“Phải nhìn thấy đặc điểm của anh em họ Ngô. Họ không là loại tay sai
kiểu bơ sữa như Tâm, Hữu, mà cố gắng thể hiện tinh thần quốc gia theo
kiểu của mình, quốc gia chống Cộng. Họ mơ tìm sử dụng người như phía ta
đã tôn vinh cụ Hoàng Minh Giám. Cụ không phải Cộng sản, sao Cộng sản vẫn
dùng người tài. Đó là mơ ước của anh em họ Ngô. Vậy nên Thảo phải nhập
vào bằng cách đó, một người giỏi, có kháng chiến, yêu nước nhưng Quốc
gia, không Cộng sản. Anh em Diệm rất cần. Tôi nói với Thảo: anh phải làm
thế nào bắn tin cho ông Ngô Đình Thục tin anh, ông ấy sẽ có tiếng nói
giúp”.
Làm sao để họ tin? Ông Mười Hương bàn với Phạm Ngọc Thảo: Hãy cứ dựa vào
lý lịch gia đình mình. Nói rõ gốc rễ như vậy, Cộng sản không bao giờ tổ
chức, phát triển anh vào Đảng. Cộng sản chọn lý lịch giai cấp cơ bản chứ
không chọn những người có lý lịch như Thảo. “Anh phải thông qua các linh
mục dưới Mỹ Tho, mới ở Thụy Sĩ về thì phải, để đến với Ngô Đình Thục.
Anh nên nói anh đi đánh Tây vì ngay ngày còn bé đi học anh cũng đã thích
đánh nhau với bọn Tây con cùng học mà hách dịch, phách lối. Anh không
hiểu vì sao gia đình anh được Tây ưu ái mà anh lại ghét Tây. Chỉ thấy
Việt Minh đứng dậy đánh Tây xâm lược nên anh theo họ. Còn họ không tổ
chức, phát triển anh vào Đảng vì gia đình anh là gia đình đại phong
kiến, thân Tây. Phải nói anh Thảo đã đóng vai này rất giỏi, như chúng ta
đã từng biết qua cuộc đời tình báo của anh. Có lần anh ấy nói với Ngô
Đình Thục: Cha ạ, ta chống Cộng phải rồi. Nhưng chống kiểu này ta thua
họ thôi. Việt Minh đi tập kết, theo đúng Hiệp định thì hai năm họ sẽ về,
cha gặp lại con, vợ gặp lại chồng. Vậy mà chúng ta ép vợ người tập kết
phải bỏ chồng, ép mẹ không được nhận con. Việc làm như thế Chúa cũng
không cho phép. Chúng ta chống Cộng thế nào lại lòi ra Việt Minh nó nhân
ái hơn.”
Được hoạt động dưới vỏ bọc công khai, hợp pháp là một thầy giáo dạy kèm,
ông Mười Hương đã liên lạc với nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo bằng cách đơn
giản, cổ xưa nhưng lại an toàn, bất ngờ nhất. Họ có những dấu mật hiệu
quy định ở đâu đó. Thí dụ, ông đi qua cửa nhà Phạm Ngọc Thảo, tìm xem
một dấu hiệu nhỏ ở đâu đó để biết có thể vào. Khi muốn đến gặp, ông cũng
làm một dấu hiệu kín đáo nào đó để đến. Ông thường nói với Phạm Ngọc
Thảo: “Tôi hoạt động bí mật. Anh thì làm việc công khai. Tôi vào đây với
danh nghĩa dân di cư vì tôi không thể giấu giọng Bắc được. Chúng mình
phải thật kỹ, kể cả việc liên lạc, gặp nhau khi có tình hình bất thường
phải trao đổi gấp.”
Họ đã trao đổi, tìm ra đường hướng hoạt động của một điệp viên. “Ý Thảo
nhận xét rất đúng: Anh em nhà họ Ngô này phải qua đảo chính lên xuống
nhừ tử mới hạ bệ được..”
Có khá nhiều lần họ gặp nhau ở Sài Gòn, nhưng cũng có một số chuyến ông
Mười Hương xuống thẳng nơi Phạm Ngọc Thảo đang làm việc ở trụ sở. Đó là
dạo Phạm Ngọc Thảo làm đại úy bảo an ở Sa Đéc. Người giao thông đưa ông
xuống gặp là một cán bộ phụ nữ Vĩnh Long, bà hiện vẫn còn sống. Hồi đó,
chị ấy có gia đình bán hàng tơ lụa ở Vĩnh Long. “Tôi vào thẳng trụ sở
của Thảo, thái độ đàng hoàng như người thân của đại úy xuống chơi xin
gặp. Thảo rất tích cực, lập nhiều mối quan hệ tốt. Anh còn cho biết ở vị
trí của anh có thể cung cấp nhiều tin tình báo, không rõ Trung ương có
cần không. Tôi bảo anh: Anh có nhiệm vụ là xây dựng ảnh hưởng, có lực
lượng chính trị bên cạnh anh để dùng. Anh phát huy bằng uy tín chính trị
cá nhân của anh chứ đừng ham mê tổ chức thêm ai cả. Dễ bị lộ lắm, Đừng
tham việc. Dứt khoát là không tổ chức cơ sở. Ý anh phân tích đúng rồi
đó: sẽ có đảo chính. Vậy anh cứ tạo xung quanh mình lực lượng chính trị
dễ tác động. Khi chúng đảo chính, anh có thế lực, ảnh hưởng đến đám sĩ
quan cao cấp. Anh tuyệt đối không tổ chức mạng lưới gì cả.”
Ông Mười Hương còn nhớ lần ấy, nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo với lòng
nhiệt huyết của một chiến sĩ rất muốn đóng góp nhiều hơn thế. Anh kể với
ông Mười Hương công việc công khai của người đại úy bảo an: Phải theo
lệnh mang quân đi càn làng xã. Anh còn than phiền rằng trong quá trình
công việc, anh quan sát được những sơ hở của các chiến sĩ ta và rất sốt
ruột. Anh bảo: Có các đồng chí còn giữ cả trong mình thơ Tố Hữu. Ông
Mười Hương phải gạt đi: “Anh mặc kệ họ. Không phải việc của anh. Nó đưa
anh vào vị trí bảo an là nó còn đang thử thách anh đấy, nó bắt anh ở vị
trí chống Cộng xem anh có chống không. Anh chỉ nắm tình hình, gây uy tín
chứ không can thiệp những gì không liên quan nhiệm vụ của anh.”
Ông Mười Hương thấy rõ sau đó Phạm Ngọc Thảo đã thực hiện rất tốt. Ông
vẫn có những cơ sở theo dõi các hoạt động của Phạm Ngọc Thảo để bảo vệ
anh, làm tai mắt. Kể cả việc phía địch đánh giá, nhận xét anh thế nào.
“Thời kỳ anh em Diệm - Nhu lập Đảng Cần lao Nhân vị còn mời cả Phạm Ngọc
Thảo vào ban lãnh đạo. Khi ban lãnh đạo Cần lao Nhân vị họp ở Viện Hối
đoái, có một cơ sở của ta đóng vai người phục vụ bán thuốc lá phục vụ
hội nghị đó. Người cán bộ cơ sở này tất nhiên không thể biết được vai
trò Phạm Ngọc Thảo nên về báo cáo với giọng giận dữ: “Cái thằng Thảo ấy
tệ lắm. Trước đây nghe nói nó có khả năng. Vậy mà vào cái hội nghị ấy,
nó phát biểu hăng lắm. Có ai nói đâu, chỉ Thảo nói, Nhu nói. Khi ra hành
lang, còn nghe Nhu nói bằng tiếng Pháp với những người thân cận nhận xét
về Thảo: đích thực là một thằng dân tộc chủ nghĩa đậm chất Nam Bộ.”
Tôi gặp Thảo, động viên: Ông đóng vai thế là ăn. Nhưng đừng hăm hở quá.
Cứ từ từ. Cần thì cứ viết báo, dùng các tích cũ để nói kiểu nước đôi,
như Mao Tôn Cương ngày xưa bình trận Xích Bích. Anh Thảo đã làm theo, sĩ
quan địch rất phục.
Ông Mười Hương làm việc với Phạm Ngọc Thảo một thời gian thì ông bị bắt.
Ông vẫn nhớ hình dáng người chiến sĩ tài năng ấy: “Người vừa tầm. Hơi
đen, khỏe mạnh, linh hoạt và dũng cảm. Đã làm được những việc kỳ tích.
Sau khi tôi ra tù lúc Diệm đổ, không liên lạc với anh ấy nữa, theo đúng
nguyên tắc. Nhưng tôi biết anh qua nhiều nguồn khác. Anh đã từng làm đến
tỉnh trưởng Bến Tre, thả cả ngàn cán bộ ta bị bắt. Trong số đó có cả anh
Bảy Thanh (Võ Viết Thanh).”
Ông Mười Hương lại nhấn mạnh như có chút tổng kết: “Các anh ấy (những
nhà tình báo nổi tiếng: Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Lê Hữu Thúy, Phạm
Xuân Ấn...) chỉ nhận chỉ đạo đường hướng thôi, còn tự tài năng của mình
đã lập công lớn. Chứ công việc bí mật, độc lập như vậy, sao cầm tay chỉ
việc được”.
Sự khiêm tốn thể hiện chân thành, tự nhiên trong giọng nói nhẹ, gương
mặt bình thản. Hoạt động đơn tuyến, ai cũng biết, nếu người chỉ huy trực
tiếp vạch đường sai, kịch bản tính nhầm một bước là có thể tan nát hêt.
|